HIẾU TÂN
truyện ngắn
Nhìn từ xa, đỉnh núi chìm trong mây. Dễ
nghĩ rằng đây là nơi bắt đầu của bầu trời.
Các triền núi rậm rì một màu xanh ngút
mắt. Từ dưới thung sâu giữa hai triền núi, từng làn hơi trắng ngùn
ngụt dâng lên. Đứng ở trên này, nơi cao nhất, nhìn mây trắng bồng bềnh
trôi quanh, tưởng như chính mình đang nhẹ bay trong một cõi mà thời
gian không còn ý nghĩa. Bản hòa tấu râm ran thánh thót của loài chim
rừng không làm tan biến đi cái tĩnh lặng của thinh không ban sớm: không
ồn ào, không quấy nhiễu, nó làm sâu thêm cái tĩnh lặng thăm thẳm của
tâm linh.
Trên một phiến đá phẳng lì rộng
khoảng chiếc chiếu, một ông già bé nhỏ, áo chàm, hài cỏ, ngồi. Ai
biết được tự bao giờ và bằng cách nào lại có mặt ở đây, trên đỉnh
cao chon von này, con người gày gò, có vẻ yếu đuối kia. Những kẻ tu
tiên học đạo, giá như buổi sớm mai tình cờ bắt gặp ông già giữa
cảnh cỏ cây mây núi này, hẳn phải có cái sửng sốt của một khoảnh
khắc gặp tiên. Vóc người đẹp, dáng ngồi ung dung thư thái. Tóc chưa
bạc hết. Dưới vầng trán thanh tao vẫn chưa xóa hết vết hằn thế sự,
là cặp mắt tinh anh và thấu suốt. Mấy ai biết rằng đây là kẻ đã
góp một tay dựng lên cơ đồ nhà Hán?
Con trai ông, mười lăm tuổi, làm chức quan
thị trung trong triều. Cha con ít khi cùng nhau trò chuyện.
Thằng bé học vấn uyên thâm, làu thông kinh sử, lại rất tài hiểu thấu
lòng người. Có lần nó hỏi ông: Trong đạo làm người, cha cho điều gì
là khó nhất?
- Khó nhất là tự biết mình
là ai. Muốn thế, phải hiểu rõ cái thời mình đang sống.
…
Chàng trai trẻ nghĩ rằng mình ít hiểu
cha. Khi Hàn tướng quân bị khép tội mưu phản, bị hoàng hậu
lừa bắt giết ở trong cung, chàng biết cha mình tin rằng Tín
vô tội. Nhưng ông không làm gì để minh oan cho Tín. Ông
chỉ lặng lẽ bỏ đi và không muốn ai nhắc chuyện đó trước mặt mình.
Thằng bé nó không hiểu, cứ hỏi tại
sao không minh oan cho Tín. Tại sao ta phải thuyết phục vua rằng Tín
không có tội, một khi chính nhà vua cũng vẫn tin như thế?
Không biết Tín có lúc nào tự trách hay không? Trước kia, là một đại
tướng quân vô địch, Tín rất tự biết mình. Giữa ba quân, Tín là cá ở
trong nước. Thời thế đổi thay, Tín chưa kịp nhìn lại xem mình là ai.
Trung tín mù quáng và tham vọng ngây thơ, tội của Tín là ở đấy chứ
còn đâu nữa.
Cha ta ít khi tự kể về người, nhưng lẽ nào
ta không biết? Chính người đã thuyết cho Tín bỏ Sở về
Hán, lại thuyết cho Hán vương dùng Tín làm đại nguyên soái phá
Sở. Không có cha ta và Hàn tướng quân, làm sao nhà Hán thu được thiên
hạ? Chưa diệt xong Sở, Tín xin làm giả vương Tề. Diệt Sở rồi, Tín
thụ phong Hoài Âm hầu. Cha ta thì chối từ tước hầu ba vạn hộ nước
Tề, chỉ nhận có đất Lưu cho phải phép. Bây giờ người thường đi vào
nơi núi sâu vắng vẻ. Người ta bảo cha ta tu tiên, học phép trường sinh.
Có kẻ lại cho rằng sợ tấm gương Hàn Tín còn treo đó, cha ta tìm
chốn an thân. Thật không gì sai bằng: chắc chắn người không tham cái
mạng sống của mình đến thế.
…...
Cái thời ta nuôi chí diệt vua Tần, ta cũng
bằng trạc tuổi nó bây giờ, mà còn chưa hiểu biết được
như nó. Ta chưa làm quan, nhưng nhà ta năm đời giữ chức
đại phu nước Hàn. Nước Hàn tàn lụi, sống, ta chỉ mong giết được Tần
Thủy Hoàng. Đi tìm kẻ hành thích, ta tiêu cả gia tài để kết
giao. Chàng trai ấy hơn ta năm tuổi, kết làm anh em:
- Tôi chưa bao giờ giết người, cũng không bao giờ
giết một con vật nhỏ mà không có lý do. Căm giận Tần Thủy Hoàng,
mến nghĩa công tử, tôi xin đem mạng sống của mình làm việc lớn. Trong
thiên hạ có nhiều hảo hớn coi mạng người như cỏ rác, sao công tử
không tìm?
- Không, tôi không muốn vậy. Việc
này – giết tên vua bạo ngược ấy, phải là người
lương thiện vô cùng, trong sạch vô cùng mới làm nổi.
Việc không thành, thích khách bị giết. Ta
lẩn trốn trong dân gian mấy năm trời. Lòng căm giận tên vua hung bạo
của dân chúng đã cứu thoát ta. Nếu Thủy Hoàng ít tàn ngược hơn,
chắc ta đã chết rồi.
Người ta đồn ông đi tìm thuốc trường sinh.
Sống lâu, sống đến ngàn năm nữa! Để làm gì nhỉ? Người ta
bảo ông biết được mệnh trời. Mệnh trời ư? Có lẽ ông không biết,
nhưng công việc của đời ông, ông biết. Món nợ – ông sinh ra ở đời – ông
trả xong rồi. Công việc của đời ông – đã xong! Chẳng lẽ lại
không biết lấy làm đủ ư?
Ôi cái thời trẻ trai, hăm hở. Chưa giết
được vua Tần, ta sống mà coi như đã chết. Mãi đến khi gặp ông già áo
cộc, mới lại thấy hồi sinh. Năm lần thử thách lòng kiên nhẫn, cụ
già bảo: ‘Ờ thằng bé này dạy được đấy’. Năm ngày đêm chuyện trò
đàm đạo, ta học đủ cho một đời. Cụ cho pho sách quý: “Đọc xong cái
này thì có thể dạy dỗ được bậc vua chúa”.
Cuộc gặp gỡ kỳ lạ ấy in vào tâm
trí của ông suốt đời. Nhưng từ giã cụ như thế
nào, ông không sao nhớ được. Sau chính ông lại nghe người ta kể
rằng: trao cho ông pho sách xong, cụ già biến mất. Mọi người
đều kể thế, nên rồi ông cũng nghĩ nó đúng là chuyện thật.
Ở Quan Trung, ông nói với Hán vương: tôi sẽ tìm
cho đại vương một viên tướng đủ sức diệt Sở. Việc dụ Tín về Hán
không khó: ở với Hạng vương, Tín vốn không được dùng. Về Hán, ông
khuyên Hán vương trao binh quyền cho Tín. Sau này Hán vương có nói “cầm
quân trăm vạn quyết thắng ngoài chiến địa, ta không bằng Tín” Vua dám
nói “không bằng” là bởi trong thiên hạ thật ra cũng chẳng có ai bằng.
Từ đây, công việc đã định rõ: Tín sẽ phải đoạt lại giang sơn cho vua.
Còn ông thì ông làm cho vua trở thành vua. Bằng cách nào? Một cách
thôi: trong màn trướng, bằng những lời nhỏ nhẹ.
Ông đã từng ở dưới trướng Hạng vương. Nếu
muốn, ông đã để cho Hạng vương dùng. Trong mắt ông, Sở bá vương
là con người kỳ vĩ. Nhà Tần diệt rồi, nhưng thiên hạ chưa đại định,
mỗi đại vương hùng cứ một phương. Nếu không có một người xứng ngôi
chủ tể, có thể thâu tóm giang sơn về một mối, thì thiên hạ mãi chìm
trong cảnh binh lửa triền miên, trăm họ còn điêu linh, khốn khổ. Gồm
thâu thiên hạ lúc này là một việc hợp với đạo trời.
Người ta bảo ngôi vua là ở mệnh trời. Ông
tin rằng, mệnh trời ấy, lúc này đang được gửi gắm nơi ông,
để qua mắt ông, nhìn cho ra thiên tử. Hạng vương bản tính cương
cường, thương yêu tướng sĩ thật lòng, nhưng khi vào việc chỉ làm theo
ý riêng, chí đã quyết thì không gì lay chuyển được.
Hán vương biết nghe người, khi thấy cái lợi
thì dễ dàng đổi ý. Đó là cái đức lớn đầu
tiên. Ngày trước, cụ già áo cộc bảo “Thằng này dạy được!”
Nay, ông thốt lên “Thiên tử đây rồi!”
Tướng Phàn Khoái theo Hán vương từ ngày khởi
nghĩa ở đất Bái, biết rất rõ tâm tính của vương. Bái
công (tức Hán vương) tính phóng khoáng rộng rãi, thích làm việc lớn,
mê rượu và hám gái. Là một trong rất ít người khởi nghĩa còn sót
lại, Khoái thường kể: “Lúc ấy chỉ có hơn trăm người. Đang đi thì có
con rắn trắng nằm chắn ngang đường, mọi người chùn lại. Bái công rút
gươm chém rắn, nhờ thế mọi người đi qua được”
Ông có ý nghĩ rằng Khoái không biết cách kể
chuyện. Cũng phải thôi, vì Khoái đâu có hiểu được điềm trời, biết ai
sẽ là Thiên tử. Một bận nghe Khoái kể đến đó, ông điềm nhiên tiếp:
“Mấy người đi cuối gặp một bà cụ tóc trắng đang khóc lóc. Hỏi thì
bà cụ nói: ‘Con tôi là Bạch đế vừa bị ông Xích đế giết chết’. Nói
xong, bà cụ biến mất” Khoái trố mắt hỏi: “Thật hả?” Ông cười
lớn: “Trời, tướng quân mà còn hỏi thật hay không. Lúc đó tướng quân
có ở đó mà” Khoái giật mình, từ đó tin là thật. Rồi mọi tên
quân đều biết câu chuyện thần kỳ này, chúng thường thích thú kể
lại. Dân chúng gần xa cũng lưu truyền. Các nơi Hán vương đi qua, dân
chúng bày hương án bái vọng. Lòng người đang chờ mong vị Hoàng đế
của mình.
Ông hỏi vị Hoàng đế tương lai: “Chúa công muốn
cai trị như thế nào?” Hán vương bảo: “Trẫm muốn như Nghiêu
Thuấn.” Ông bảo: “Không được. Chỉ làm được Nghiêu Thuấn ở thời
của Nghiêu Thuấn. Nay thời Nghiêu Thuấn không còn, làm như thế là
chuốc lấy thảm họa.” Vương bảo: Trẫm xin nghe Tiên sinh.
Không có gì khó bằng sửa đức cho
một người – dù là bậc hiền minh – đang nắm quyền
tối thượng. Nhưng với kẻ đang thèm muốn ngôi vua thì đơn giản hơn: chỉ
cần vạch rõ con đường dẫn đến ngôi báu, dù là kẻ ngu tối cũng trở
nên dễ dạy. Huống chi Hán vương vốn là người rất sáng.
Vương vốn rất ghét bọn kẻ sĩ. Vương không
đốt sách, nhưng vương sẵn sàng đái vào sách. Ngài thường
bảo “Lũ hủ nho chó đẻ ấy, ông cần gì chúng
nó.” Vương rất khoái trá khi làm nhục bọn nhà nho.
Có lần ông đã thấy vương, trắng như một con lợn cạo, trên
người độc có một manh vải nhỏ phủ ngang lưng, đang vừa nằm sấp trên
sập cho bốn đứa con gái trẻ đẹp đấm bóp, vừa quát tháo để “tiếp”
một kẻ sĩ vừa được tiến cử cho vương. Ông bảo: “Đại vương muốn lấy
thiên hạ thì phải giữ lễ với kẻ sĩ. Bọn họ nắm được nhân tâm đấy.”
Vương nghe theo. Vương vốn dĩ là người có sức mạnh. Giờ đây chỉ cần
bảo cho vương biết các đường lợi hại, cái trí của vương sẽ tự biểu
lộ ra. Vương thừa sức mạnh để gọi một sĩ phu trí tuệ siêu quần là thằng
hủ nho khốn nạn, nhưng giờ ngài đã đủ khôn ngoan để nói với kẻ
sĩ tầm thường hèn mọn “Tiên sinh có điều chi dạy bảo quả nhân?”.
Trong đời thường, Hạng vương là người sống có
tình, nhưng ông ta hay dùng uy vũ để tới đích, lại ít lưu tâm ban
thưởng kẻ có công. Hán vương hào phóng, thích ban thưởng, vậy Hán
vương sẽ là vì vua Ân Đức. Vũ dũng như Hạng vương thì khó đương đầu,
nhưng về lâu dài, Ân Đức sẽ thắng. Hào kiệt khắp nơi theo về với
Hán, nô nức tranh đua lập công, vua thắng thì họ sẽ được phong thưởng.
Vì thế thiên hạ nghiêng về Hán.
Muốn thắng trong chiến trận để bình định
thiên hạ, thì cần có tướng mạnh binh hùng, nhưng đó chưa đủ làm chỗ
dựa lâu dài cho sự trường tồn của đế nghiệp – có lần ông luận bàn
với Hán Cao tổ. Chỗ dựa ấy cần phải tìm ở nhân tâm, qua nhân tâm mà
biết vận trời còn hết; suy thịnh, hưng vong chính là ở đấy.” Thấy
Cao tổ lắng nghe, ông tiếp, “Nhân là tất cả những ai được kể
là người, trong số đó chính những kẻ tiện dân bé mọn lại là đông
đảo nhất, bệ hạ chớ nên quên họ”
Ông tin rằng đế vương thì không phải là người
thường, cái đức của người thường cùng lắm chỉ động đến một nhúm
người sống quanh, cái đức của vua chúa bao giờ cũng tỏa rộng, thấm
sâu đến muôn dân. Lần này thì không phải ông răn nhà vua, chính nhà vua
đã dạy cho ông điều đó.
Lần ấy vừa thắng lớn ở Tam Tần, đại quân dừng
chân tại một huyện lạ miền sơn cước. Xe Hán vương đi qua, hàng
ngàn dân đổ ra chào đón, ai cũng muốn nhìn thấy mặt
vị cứu tinh. Hán vương đến tận nơi úy lạo các bô lão, cả ngàn
cặp mắt nhìn theo không chớp, cả ngàn người nín thở, không khí cực
uy nghiêm. Bỗng có tiếng trẻ con khóc thét, người mẹ trẻ bế con trên
tay mặt mày xám ngoét, đang cuống quít lẩn đi. Một bà già – ý hẳn
mẹ chồng, gắt mắng bằng giọng cố nén đến nghẹn lại. Hán vương thong
thả bước lại, ôn tồn hỏi han. Một bô lão đỡ lời: con nó bị bệnh,
thuốc thang mãi chả khỏi, hôm nay vì khao khát chiêm ngưỡng long nhan
mà nó liều lĩnh bế con ra, cúi xin đại vương xá tội. Đại vương bước
đến lật tấm chăn, thản nhiên đưa tay sờ trán thằng bé: một cục thịt
nóng bỏng đỏ rực đang khò khè. Ngài vẫy bảo lính đưa hai mẹ con lên
xe của ngài về trại giao cho quan thái y chữa chạy, trước mấy ngàn
cặp mắt chết trân vì kinh ngạc của quan, dân, lính…..
Không hiểu sao hôm nay ông lại
nhớ đến đứa trẻ được cứu sống lần ấy bởi quan thái y
và nhờ hồng đức của đại vương, trong lúc đi tìm hái mấy
lá thuốc. Gần đủ vị rồi, không phải thuốc trường sinh như người ta
tưởng, mà chỉ là mấy lá cỏ thường, để chữa cho mấy đứa trẻ trong
một cái bản gồm mấy căn nhà xiêu vẹo dưới chân núi. Mấy đứa trẻ
trần truồng, bẩn thỉu, đen đúa, suốt ngày lăn lê chơi đùa với trâu gà
chó lợn, lúc nào cũng thấy chúng sống và vui. Vậy mà khi ốm đau,
thiếu mấy lá thuốc vớ vẩn này, chúng cũng chết rất nhẹ nhàng.
Ông đứng thẳng lên cho dãn lưng. Xa xa, bên kia
dòng sông Hoàng cuồn cuộn chảy, kinh thành đang ánh lên dưới nắng.
Cung điện trông xa như bằng vàng thật, lại có mây ngũ sắc bao quanh.
Ông dụi mắt nhìn xuống mấy triền núi xanh cho dịu lại, rồi từ từ
khẽ nhắm. Một hơi thở nhẹ và sâu nâng ông lên khỏi một bờ vực sâu hun
hút, mà trong một khoảng xa xăm nào đó, ông tưởng mình xuýt rơi
vào./.
Vũng tàu, tháng 10, 1989
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét