Kỷ niệm 100 năm thuyết tương đối ALBERT EINSTEIN (2005)
ALBERT EINSTEIN
HIẾU TÂN dịch
HIẾU TÂN dịch
KHÔNG -THỜI
GIAN (SPACE-TIME )
Tất cả mọi tư duy và quan niệm của chúng ta được khơi
gợi lên từ những kinh nghiệm- cảm giác, và có được ý nghĩa chỉ trong mối liên hệ với những
kinh nghiệm-cảm giác đó.
Tuy
nhiên , mặt khác chúng là sản phẩm của những hoạt động tự phát của trí óc, như
vậy, chúng không phải là hậu quả có tính logíc của các nội dung của những kinh
nghiệm cảm giác ấy. Do đó, nếu chúng ta mong nắm được thực chất của một tổ hợp
các khái niệm trừu tượng, thì, một mặt chúng ta phải khảo sát những mối quan hệ
hỗ tương giữa các khái niệm và những khẳng định về chúng, mặt khác, chúng ta phải
tìm hiểu chúng liên hệ với những kinh
nghiệm như thế nào.
Về phương thức trong đó các khái niệm liên hệ với nhau
và với kinh nghiệm, không có sự khác nhau về
nguyên tắc giữa các hệ thống khái niệm khoa học với các khái niệm của đời
thường. Hệ thống khái niệm khoa học lớn lên từ khái niệm của đời thường, và đã
được thay đổi và hoàn chỉnh theo các mục tiêu, mục đích của môn khoa học liên
quan.
Khái niệm càng
phổ biến, nó càng đi vào suy nghĩ của chúng ta thường xuyên hơn , và nó liên hệ
với kinh nghiệm càng gián tiếp bao nhiêu thì chúng ta càng khó hiểu ý nghĩa của
nó bấy nhiêu ; đặc biệt đối với các khái niệm tiền khoa học mà chúng ta quen sử
dụng từ thời thơ ấu. Xem xét các khái niệm được diễn đạt bằng các từ :“Ở đâu”
“Khi nào” “Tại sao” “Là ”, có hằng hà sa số các triết thuyết nhằm giải thích
chúng. Chúng ta suy đoán [về những vấn đề ấy]
không khá gì hơn con cá cố gắng hiểu rõ nước là gì.
KHÔNG
GIAN
Trong bài này chúng ta quan tâm đến ý nghĩa của từ “ở
đâu”, tức là không gian. Rõ ràng trong kinh nghiệm cảm giác cá nhân nguyên thuỷ
của chúng ta không cómột tính chất nào
có thể là được chỉ định [để nói]về tính không gian. Đúng hơn là, cái có tính
không gian hiện ra như một kiểu trật tự các đối tượng vật chất của kinh nghiệm.
Khái niệm “đối tượng vật chất ”, do đó, phải có trước nếu có thể có các khái niệm
liên quan đến không gian. Đó là một khái niệm sơ đẳng [có trước nhất]về mặt
lôgic. Điều này dễ thấy nếu chúng ta phân tích các khái niệm không gian chẳng hạn
“bên cạnh”, “tiếp xúc với” vân vân, nghĩa là nếu chúng ta cố gắng nhận biết được
sự tương đương của chúng trong kinh nghiệm. Khái niệm “đối tượng” là một phương
tiện để xem xét sự tồn tại dài lâu trong thời gian hoặc tính liên tục, của một
nhóm kinh nghiệm-phức cảm nào đó. Như vậy sự tồn tại của các đối tượng thực chất
là quan niệm, và ý nghĩa của quan niệm về đối tượng phụ thuộc vào việc chúng được
liên hệ (một cách trực giác) với nhóm kinh nghiệm cảm tính cơ bản. Mối liên hệ
này là cơ sở cho cái ảo tưởng làm xuất hiện kinh nghiệm nguyên thuỷ để thông
báo cho chúng ta một cách trực tiếp về mối quan hệ của những thể vật chất ( dẫu
sao, chúng chỉ tồn tại trong chừng mực chúng được [người ta ] nghĩ đến)
Theo ý nghĩa
như vậy chúng ta có một cách gián tiếp kinh nghiệm của sự tiếp xúc giữa hai vật
thể. Chúng ta không cần làm gì hơn là hướng chú ý vào cái đó, một khi chúng t a
không đạt được điều gì trong mục đích hiện tại của chúng ta bằng cách chọn ra những kinh nghiệm cá nhân mà điều khẳng
định này đề cập đến. Nhiều vật thể có thể được đưa vào tiếp xúc vĩnh cửu với
nhau theo những cách khác nhau. Chúng ta nói đến mối quan hệ- vi trí của các vật
thể là theo nghĩa đó .
(Lagenbeziehungen). Các
định luật tổng quát về các mối quan hệ-vi trí như vậy, thực chất là mối quan
tâm của môn hình học. Nó vẫn là như thế , ít nhất nếu chúng ta không muốn tự giới
hạn trong việc xem các mệnh đề trong ngành tri thức này chỉ như mối quan hệ giữa
những từ ngữ trống rỗng đã được sắp đặt theo những nguyên tắc nào đó.
TƯ DUY TIỀN - KHOA HỌC
Bây giờ ta thử xem ý nghĩa của khái niệm “không gian”,
cái khái niệm mà chúng ta cũng gặp trong tư duy tiền khoa học, là gì? Khái niệm
không gian trong tư duy tiền khoa học được đặc trưng bằng câu sau đây: “ chúng
ta có thể nghĩ đến các đồ vật , nhưng không thể nghĩ đến khoảng không mà chúng
chiếm”. Cứ như thể là , vốn không có một thứ kinh nghiệm gì, chúng ta có một
khái niệm nó từ chối ngay cả việc biểu thị về không gian , như thể với sự giúp
đỡ của khái niệm này chúng ta ra lệnh cho các kinh nghiệm cảm tính của chúng
ta, biểu thị một suy diễn tiên nghiệm.
Mặt khác, không gian xuất hiện như một thực tế vật lý, như một vật thể tồn tại
độc lập với suy nghĩ của chúng ta, giống như các đối tượng vật chất. Dưới ảnh hưởng của
cách nhìn này về không gian những khái niệm nền tảng của Hình học : điểm, đường
thẳng , mặt phẳng vẫn được coi như có tính cách hiển nhiên . Các nguyên tắc cơ
bản về những hình dạng này được coi là đương nhiên có hiệu lực và đồng thời có
nội dung khách quan. Người ta không ngần ngại gán một ý nghĩa khách quan cho
câu khẳng định đại loại như “ ba vật thể đã cho một cách cảm tính (thực tế là
vô cùng nhỏ) nằm trên cùng một đường thẳng”, mà không cần đến một định nghĩa vật
lý cho một điều khẳng định như thế. Niềm tin mù quáng vào tính hiển nhiên và
vào ý nghĩa thực tế trực tiếp của các khái niệm và các mệnh đề của hình học chỉ
trở nên không chắc chắn sau khi hình học phi-Ơclit ra đời.
QUI CHIẾU VỀ TRÁI ĐẤT
Nếu chúng ta xuất phát từ quan điểm cho rằng tất cả
các khái niệm không gian đều liên hệ đến kinh nghiệm xúc tiếp của các vật rắn,
thì dễ hiểu khái niệm “không gian” đã phát sinh như thế nào, tức là, làm sao có
thể thừa nhận một cái gì đó độc lập với các vật thể nhưng lại biểu hiện vị
trí-khả dĩ (Lagerungs-moglichkeiten) của chúng . Nếu chúng ta có một hệ vật tiếp
xúc và đứng yên tương đối với nhau , cái
này có thể thay thế bởi cái kia. Cái tính chất có thể thay thế này được hiểu
như là “khoảng không có sẵn”. Không gian bao hàm ý nghĩa là một tính chất theo
đó các vật rắn có thể chiếm các vị trí khác nhau. Cái quan điểm cho rằng không
gian là một cái gì đồng nhất với bản thân nó có lẽ là do điều này: trong tư duy
tiền-khoa học, tất cả mọi vị trí của các vật thể được qui chiếu về một vật (vật
qui chiếu/ vật chuẩn), tức là Trái đất. Trong tư duy khoa học , trái đất được
biểu thị bằng hệ toạ độ. Điều khẳng định rằng có thể đặt một số lượng vô hạn vật
thể bên cạnh nhau có hàm nghĩa rằng không gian là vô hạn. Trong tư duy tiền
khoa học các khái niệm “không gian ” và “thời gian” và “vật qui chiếu” là hoàn
toàn không thể phân biệt được. Một vị trí hoặc một điểm trong không gian luôn
luôn có nghĩa là một điểm vật chất trên một vật qui chiếu.
HÌNH HỌC ƠCLIT
Nếu chúng ta xem xét hình học Ơclit chúng ta thấy rõ rằng
nó nói đến các định luật điều phối vị trí các vật rắn. Nó lợi dụng cái ý tưởng
thông minh là quy tất cả các mối liên hệ
của các vật thể và vị trí tương đối của
chúng với khái niệm rất đơn giản “khoảng cách” (Strecke). Khoảng cách hàm nghĩa một vật rắn trên đó hai chất điểm
(dấu) được ghi lại. Khái niệm về sự bằng nhau của các khoảng cách (và cac góc)
nói đến những thí nghiệm chồng khít, điều nhận xét này cũng áp dụng cho các định
lý về tương đẳng. Ngày nay hình học Ơclit dưới dạng như nó được truyền cho
chúng ta từ Ơclit, sử dụng những khái niệm cơ bản “đường thẳng”, “mặt phẳng”, những khái niệm
này không có vẻ tương ứng, dù ở mức độ nào,
với những kinh nghiệm về vị trí của các vật rắn.. Về điểm này cần nhận thấy
rằng khái niệm đường thẳng có thể giản lược thành khái niệm khoảng cách ¹. Hơn nữa, các nhà hình học ít quan
tâm đến việc đối chiếu các khái niệm cơ bản của họ với kinh nghiệm hơn là diễn
dịch một cách lôgic các mệnh đề hình học từ một số ít những tiên đề được phát
biểu ngay từ đầu.
Chúng ta hãy sơ lược vài nét xem từ khái niệm khoảng
cách có thể đạt đến những điểm cơ bản của hình học Ơclit như thế nào.
Chúng ta xuất phát từ sự bằng nhau của các khoảng cách
(tiên đề về sự bằng nhau của các khoảng cách). Giả sử có hai khoảng cách không
bằng nhau, một khảong cách luôn lớn hơn khảng kía. Những tiên đề về sự không bằng
nhau của các khoảng cách cũng là những tiên đề về sự không bằng nhau của các số.
Ba khoảng cách AB¹, BC¹, CA¹có thể , nếu CA¹được chọn một cách phù hợp, có các điểm đầu của chúng
BB¹,CC¹,AA¹ đặt chồng lên
nhau để tạo thành một tam giác ABC. Khoảng cách CA¹ có một giới hạn trên sao cho phép
dựng hình trên đây vừa vặn có khả năng tồn tại. Các điểmA, (BB¹), và C lúc này nằm trên một đường
thẳng (định nghĩa).Điều này dẫn tới các khái niệm: Tạo ra một khoảng cách bởi một
lượng bằng chính nó; phân chia một khoảng cách thành các phần bằng nhau, biểu
thị một khoảng cách bằng con số nhờ một thước đo (định nghĩa về khoảng không
gian giữa hai điểm)
Khi đạt được khái niệm khoảng không gian giữa hai điểm
hay độ dài của khoảng cách bằng cách này, chúng ta chỉ cần tiên đề sau đây (định
lý Pythagoras) để đi đến hình học Ơclit theo cách giải tích
Với mọi điểm trong không gian (vật qui chiếu) có thể
gán ba con số (toạ độ) x,y,z -hay ngược lại- sao cho đối với mỗi cặp điểm A(x1,y1,z1)
và B(x2,y2,z2)
ta có :
số đo AB = {căn bậc hai (x2 - x1)2
+(y2 - y1)2 +(z2 -
z1)2 }
Mọi khái niệm và mệnh đề sau này của hình học Ơclit đều
có thể được xây dựng một cách thuần lý
dựa trên cơ sở này, đặc biệt là các mệnh đề về đường thẳng và mặt phẳng.
Những nhận xét trên tất nhiên không có ý định thay thế
cho cấu trúc theo các tiên đề chặt chẽ của hình học Ơclit. Chúng tôi chỉ muốn
chỉ ra một cách hợp lý rằng tất cả các quan niệm của hình học có thể qui về
quan niệm khoảng cách như thế nào. Có thể chúng tôi đã thu gọn toàn bộ cơ sở của
hình học Ơclit về định lý trên đây. Như vậy mối quan hệ đối với các nền móng của
kinh nghiệm được cung câp thêm một định lý bổ sung .
Các toạ độ có thể và phải đựơc chọn sao cho hai cặp điểm cách nhau những quãng bằng nhau
như phép tính theo định lý Pythagoras, có thể được làm cho trùng với một và
cùng một khoảng cách đã chọn (trên một hình ba chiều)
_________________
¹Ý này suy ra từ định lý : “đường thẳng là đường nối ngắn nhất giữa hai
điểm” Định lý đó cũng có thể dùng làm định nghĩa về đường thẳng , mặc dù định
nghĩa không đóng vai trò gì trong kết cấu lô gic của các suy luận
Các khái niệm và mệnh đề của hình học Ơclit có thể suy
ra từ định lý Pythagoras và không cần viện đến các vật rắn, nhưng như vậy những
khái niệm và mệnh đề này không có các nội dung có thể khảo chứng. Chúng không
phải là những mệnh đề “thật”mà chỉ là
những
mệnh đề có nội dung đúng một cách thuần tuý lôgic mà thôi.
NHỮNG KHÓ KHĂN
Trong việc trình bày trên đây về cách hiểu
hình học ta gặp một khó khăn nghiêm trọng là các vật rắn kinh nghiệm không
tương ứng một cách chính xác với các vật thể hình học. Khi nói điều này tôi ít
nghĩ đến việc không có những tiêu chuẩn tuyệt đối rõ ràng, hơn là nghĩ đến nhiệt
độ, áp suất và các hoàn cảnh điều kiện khác làm thay đổi các định luật liên
quan đến vị trí. Cũng nên nhớ lại rằng các thành tố cấu tạo vật chất (như
nguyên tử, điện tử..) bị các nhà vật lý cho rằng về nguyên tắc không xứng với các vật rắn, tuy nhiên,
các khái niệm hình học được áp dụng cho chúng và các bộ phận của chúng. Vì
duyên cớ này những người có tư tưởng nhất quán không muốn cho nội dung thực của
các sự vật (reale Tatsachenbestande)
chỉ phù hợp với hình học mà thôi. Họ cho rằng nên để cho nội dung kinh nghiệm (Erfahrungsbestande) phù hợp với cả hình
học và vật lý liên kết với nhau
Quan
điểm này chắc chắn là ít bị công kích hơn quan điểm trình bày trên kia, vì trái
ngược với lý thuyết nguyên tử, nó là quan điểm duy nhất vượt qua được . Tuy
nhiên theo ý kiến của tác giả, không nên từ bỏ quan điểm đầu tiên, quan điểm mà
từ đó hình thành các nguồn góc của môn hình học. Mối liên hệ này thực chất dựa
trên niềm tin rằng vật rắn lý tưởng là một trừu tượng có gốc rễ sâu xa từ các
qui luật tự nhiên.
CÁC CƠ SỞ CỦA HÌNH HỌC
Bây
giờ chúng ta đi đến một câu hỏi:cái gì là chắc chắn một cách tiên nghiệm trong hình học (lý thuyết về không gian),
hay cần thiết một cách tiên nghiệm trong những cơ sở của nó. Trước đây chúng ta
nghĩ: mọi thứ -vâng, mọithứ; bây giờ chúng ta nghĩ-- không có gì cả. Khái niệm
khoảng cách trước đây về mặt lôgic là tuỳ ý , không cần có điều kiện gì thích ứng
với nó, dù chỉ tương đối. Có thể phát biểu tương tự như thế về đường thẳng , mặt
phẳng, về không gian ba chiều, về hiệu lực của định lý Pythagoras. Hơn thế nữa,
ngay cả lý thuyết continum cũng không hề là cái có trước so với bản tính của tư
duy , do đó từ quan điểm nhận thức luận, đối với các quan hệ hình học tôpô thuần
tuý, không ai có thẩm quyền hơn người
khác.
CÁC KHÁI NIỆM CỦA
VẬT LÝ CỔ ĐIỂN.
Tuy vậy chúng ta vẫn phải đề cập đến những
thay đổi trong quan niệm về không gian, cái quan niệm đã đi cùng với sự xuất hiện
của thuyết tương đối . Nhằm mục đích này, chúng ta phải xem xét khái niệm không gian của vật lý cổ điển theo
một cách nhìn khác với trên kia. Nếu chúng ta áp dụng định lý Pythagoras cho
các điểm vô cùng gần nhau , ta có :
ds2 =
dx2 + dy2 + dz2
trong đó
ds là khoảng cách có thể đo được giữa chúng. Đối với một ds đã cho- theo
kinh nghiệm hệ tọa độ chưa đủ xác định cho mọi kết hợp của các điểm bằng phương trình này.
Ngoài
việc được tịnh tiến, một hệ toạ độ còn có thể được quay2. Điều này có ý nghĩa giải tích: các quan hệ của
hình học Ơclit là hiệp biến đối với các phép biến đổi trực giao tuyến tính của
các toạ độ
Khi
áp dụng hình học Ơclit vào cơ học cũ (trước khi có thuyết tương đối) có thêm một
yếu tố không xác định nữa được đưa vào qua việc chọn hệ toạ độ : trạng thái
chuyển động của hệ toạ độ là tuỳ ý ở mức độ nhất định, tức là trong đó cũng có thể xảy ra những phép thay
thế của các hệ toạ độ thuộc dạng
x’ =
x –vt
y’
= y
z’ =
z
Mặt
khác, cơ học cũ không cho phép áp dụng các hệ toạ độ mà trạng thái chuyển động
của chúng khác với biểu diễn trong các
phương trình này. Chúng ta nói đến các “hệ quán tính ” là theo nghĩa này. Trong
các hệ quán tính được ưa chuộng này chúng ta gặp phải một thuộc tính mới của
không gian mà cho đến nay các quan hệ hình học chưa đề cập đến, đó không phải
là thuộc tính của không gian đơn thuần mà là một thuộc tính của con- tinum bốn
chiều bao gồm cả thời gian và không gian hợp chung lại.
SỰ XUẤT HIỆN CỦA THỜI GIAN
Tại
điểm này, lần đầu tiên thời gian dứt khoát bước vào cuộc thảo luận của chúng ta
.Trong sự áp dụng của chúng, không gian (vị trí) và thời gian luôn xuất hiện
cùng với nhau. Mọi sự kiện xảy ra trong thế giới được xác định bởi hệ toạ độ -
không gian x, y, z, và toạ độ-thời gian
t. Như vậy mô tả vật lý về bốn chiều có ngay từ đầu. Nhưng cái continum
bốn chiều này dường như tự tách ra thành continum không gian ba-chiều và
continum thời gian một-chiều. Sự tách rời này vốn xuất phát từ cái ảo tưởng cho
rằng khái niệm“đồng thời” tự nó có ý nghĩa hiển nhiên, mà cái ảo tưởng này lại
doở chỗ chúng ta nhận được tin từ những sự kiện gần gũi hầu như tức thời nhờ
môi giới của ánh sáng.
Niềm tin vào ý nghĩa tuyệt đối của sự đồng thời
này đã bị phá huỷ bởi qui luật điều hành sự truyền ánh sáng trong chân không,
hay là điện động lực học của Maxwell-Lorentz. Hai điểm vô cùng gần nhau có thể
liên lạc được với nhau nhờ một tín hiệu ánh sáng nếu có thể áp dụng cho
chúng quan hệ sau đây :
ds2 = c2
dt2 - dx2 -dy2 – dz2 = 0
Từ
đó có thể suy ra rằng vì các điểm không-thời gian vô cùng gần nhau được chọn
tùy ý, ds. có một giá trị độc lập với hệ
quán tính nhất định đã cho. Nhất trí với điều này, chúng ta thấy rằng để chuyển
từ một hệ quán tính này sang một hệ khác, các phương trình chuyển động nói
chung không giữ nguyên các giá trị -thời gian không đổi. Như vậy, điều này chứng tỏ rằng continum bốn chiều
không thể tách ra thành continum-không gian và continum-thời gian, ngoại trừ được
tách ra một cách độc đoán. Lượng không đổi ds có thể được đo bằng thước và đồng
hồ.
________________________________
2
Thay đổi phương của các trục toạ độ
nhưng chúng vẫn giữ vuông góc với nhau
HÌNH HỌC BỐN CHIỀU
Với
một lượng ds không đổi, ta có thể xây dựng hình học bốn chiều theo phương pháp
tương tự như hình học ba chiều của Ơclit. Theo cách này, vật lý trở thành một
loại thống kê trong continum bốn chiều . Ngoài sự káhc nhau về số chiều ,
côntinum bốn chiều còn khác với hình học Ơclit ở chỗ ds có thể lớn hơn hoặc nhỏ
hơn không (zêrô). Theo đó chúng ta phân biệt giữa các yếu tố có tính thời gian
và các yếu tố có tính không gian . ranh giưói giữa chúng được vạch ra bởi yếu tố ds2 = 0 xuất phát từ mọi điểm.Nếu
chúng ta chỉ xét các yếu tố thuộc cùng giá trị thời gian, chúng ta có
-ds2
= dx2 + dy2 + dz2
Những
phần tử ds này có thể có phần tử đối ở khoảng cách cố định và như trước đây,
hình học Ơclit áp dụng được cho chúng.
TÁC DỤNG CỦA THUYẾT TƯƠNG ĐỐI HẸP VÀ TỔNG QUÁT
Đây là sửa đổi mà thuyết không gian và thời
gian đã thực hiện thông qua thuyết tương đối hẹp. Lý thuyết về không gian vẫn
còn được sửa chữa nhiều hơn nữa bởi thuyết tương đối tổng quát, vì thuyết này
phủ nhận rằng phần không gian ba chiều của continum không -thời gian là có đặc
tính Ơclit. Do đó nó cho rằng hình học Ơclit không áp dụng cho vị trí tương đối
của các vật thể tiếp xúc liên tục với nhau.
Vì
qui luật có tính kinh nghiệm về sự bằng nhau của khối lượng quán tính và khối
lượng hấp dẫn khiến chúng ta hiểu được trạng thái của continum, đối chiếu với hệ
không- quán tính trọng trường và để xử lý các hệ không- quán tính tương tự như với hệ quán tính. Qui vào một hệ được kết
nối với hệ quán tính như thế bởi phép biến đổi phi tuyến của các toạ độ, lượng
bất biến ds2 có dạng chung:
ds2
= Σμν g{sub
μν}dxμ dxν
Trong
đó: các g{sub μν} là
các hàm của toạ độ và tổng được lấy các
chỉ số với mọi kết hợp 11.12...44. Tính
khả biến của g{sub μν} tương đương với tồn tại của một trường
hấp dẫn. Nếu trường hấp dẫn đủ tổng quát thì không thể tìm thấy một hệ quán
tính nào, nghĩa là , một hệ toạ độ mà các lượng ds2 qui chiếu vào nó có thể biểu diễn bằng
dạng đơn giản trên kia :
ds2 = c2
dt2 - dx2 -dy2 – dz2
Nhưng
trong cả trường hợp này nữa trong khoảng
vi phân (vùng lân cận vô cùng bé)của một điểm không-thời gian có một hệ qui chiếu cục bộ mà ds giữ dạng đơn
giản nói trên.
Trạng
thái thực tế này dẫn đến một kiểu hình học mà thiên tài của Riemann đã sáng tạo
ra hơn nửa thế kỷ trước khi thuyết tương đối tổng quát ra đời, lý thuyết mà
Riemann đã tiên đoán tầm quan trọng của nó đối với vật lý học
HÌNH HỌC RIEMANN
Hình
học Riemann về không gian n-chiều có quan hệ với hình học Ơclit về không gian
3-chiều với tư cách là hình học đại cương, cũng giống như quan hệ của hình học
của các mặt cong đối với hình học phẳng. Với khoảng vi phân (vùng lân cận vô
cùng bé)của một điểm trên một mặt cong , có một hệ toạ độ cục bộ mà trong đó
khoảng cách ds giữa hai điểm vô cùng gần nhau được cho bởi phương trình:
ds2 = dx2 + dy2
Tuy
nhiên, với mọi hệ toạ độ tuỳ ý (Gauss), một biểu thức dạng :
ds2
= g{sub 11} dx12 +
2g{sub 12} dx1 dx2 + g{sub 22}
dx22
có
tác dụng trong một phạm vi xác định của mặt cong. Nếu các g{sub μν} được cho như các hàm của x1
và x2 thì lúc đó bề
mặt được xác định hoàn toàn về mặt hình học. Vì từ công thức này chúng ta có thể
tính ra mọi kết hợp của hai điểm vô cùng gần nhau trên bề mặt chiều dài ds của
thanh vi tế (minute rod) nối giữa chúng , và với sự giúp đỡ của công thức này tất
cả mạng lưới có thể xây dựng trên bề mặt bằng các thanh li ti này đều có thể
tính toán được. Đặc biệt, độ cong tại mọi điểm trên mặt cong có thể tính toán
được, đó là số lượng cho thấy các qui luật chi phối vị trí của thanh trong vùng
lân cận của điểm đang xét sai lệch so với các qui luật trong hình học phẳng đến
mức nào và bằng cách nào.
Lý
thuyết về các mặt cong của Gauss được Riemann mở rộng đến các continum với số
lượng chiều kích bất kỳ và như vậy đã mở đường cho thuyết tương đối tổng quát.
Vì như đã trình bày ở trên, ứng với hai điểm vô cùng gần nhau của không-thời
gian ta có thể nhận được một số ds bằng cách đo bằng thước cứng và đồng hồ (tất
nhiên, với các phần tử có tính thời gian , chỉ đo bằng đồng hồ thôi). Số lượng
(ds) này xuất hiện trong lý thuyết toán thay thế cho chiều dài của thanh vi tế trong hình học ba chiều . Các đường cong mà với
chúng tích phân ∫ds có các giá trị tĩnh xác định đường đi của các điểm vật chất và
các tia sáng trong trường hấp dẫn và độ cong của không gian phụ thuộc vào sự
phân bố vật chất trong vũ trụ.
Cũng như trong hình học Ơclit khái niệm không
gian nói đến các vị trí -khả dĩ của các vật rắn, trong thuyết tương đối tổng
quát khái niệm không-thời gian nói đến hoạt động của các vật thể rắn và các đồng
hồ. Nhưng continum không-thời gian khác với continum không gian ở chỗ qui luật
chi phối hoạt động của các vật thể này (đồng hồ và thứơc đo) phụ thuộc vào chỗ
chúng đang ở đâu. Continum này (hoặc các con số miêu tả nó) đưa tính rõ ràng
vào các qui luật tự nhiên, và ngược lại những thuộc tính của continum này được xác định bởi các nhân tố vật lý. Các
quan hệ kết nối không gian và thời gian không còn khác biệt với bản thân vật
lý.
Không
có gì chắc chắn đã được biết về các thuộc tính có thể có của toàn bộ continum
không-thời gian. Tuy nhiên , thông qua thuyết tương đối tổng quát cái quan niệm
cho rằng continum là vô hạn về mặt thời gian nhưng hữu hạn về không gian là có
thể .
THỜI GIAN
Khái
niệm thời gian vật lý là trả lời cho khái niệm thời gian của tư duy ngoài khoa
học. Cái khái niệm thời gian của tư duy ngoài khoa học ấy có gốc rễ trong trật
tự thời gian của kinh nghiệm cá nhân, và cái trật tự ấy chúng ta buộc phải chấp
nhận như một cái gì đã có sẵn ngay từ đầu.
Tôi
trải nghiệm cái khoảnh khắc “bây giờ”, hay, diễn đạt chính xác hơn, trải nghiệm-cảm
giác hiện tại (Sinnen Erlebnis) kết hợp với nhớ lại những trải nghiệm-cảm
giác (trước đây). Đó là lý do tại sao những trải nghiệm này dường như hình
thành một loạt , tức là chuỗi thời gian được ghi nhận bằng “sớm hơn” và “muộn
hơn”. Chuỗi kinh nghiệm đó được coi như một continum một chiều. Các chuỗi kinh nghiệm có thể tự lặp lại và do đó có thể
được tái nhận. Chúng cũng có thể được lặp lại không hoàn toàn chính xác, trong
đó một số sự kiện được thay thế bằng các sự kiện khác mà chúng ta không cảm thấy bị mất đi đặc tính của
lặp lại.
Bằng cách đó chúng ta dựng lên khái niệm thời
gian như cái khung một chiều có thể đổ đầy kinh nghiệm vào đấy theo nhiều cách
khác nhau. Những chuỗi kinh nghiệm nào thì
ứng với những khoảng thời gian chủ
quan đó.
Việc
chuyển từ thời gian chủ quan (Ich-Zeit)
sang khái niệm thời gian của tư duy tiền khoa học đựoc liên hệ với sự hình
thành của ý tưởng cho rằng có một thế giới thực tại bên ngoài độc lập với chủ
quan. Theo nghĩa này các sự kiện (khách
quan) được làm cho đáp ứng với những kinh nghiệm chủ quan. Cũng theo nghĩa này
có một thời gian của sự kiện “khách quan” tương ứng đuợc qui cho thời gian “chủ
quan” của kinh nghiệm. Ngược lại với các kinh nghiệm các sự kiện bên ngoài và
trật tự của chúng trong thời gian đòi hỏi tính hiệu lực cho tất cả các chủ thể
.
Quá
trình khách thể hoá này không gặp khó khăn là trật tự thời gian của các kinh
nghiệm tương ứng với hàng loạt các sự kiện bên ngoài là như nhau đối với tất cả
mọi cá nhân. Trong trường hợp cảm giác thị giác trực tiếp của cuộc sống hàng
ngày của chúng ta, sự tương ứng này là chính xác. Đó là lý do tại sao cái ý tưởng
cho rằng có một trật tự thời gian khách quan đã trở thành vững chắc một cách
phi thường. Trong khi vạch ra cái tư tưởng về một thế giới khách quan của các sự
kiện bên ngoài một cách thật chi tiết, ta thấy cần thiết phải làm cho các sự kiện
và các kinh nghiệm phụ thuộc lẫn nhau một cách phức tạp hơn. Điều này trước hết
được thực hiện bằng các qui tắc và cách thức mà tư duy đạt được một cách bản
năng, trong đó khái niệm về không gian đóng vai trò đặc biệt nổi bật. Quá trình
tinh vi này rốt cuộc dẫn đến khoa học tự nhiên.
Việc
đo thời gian được thực hiện bằng đồng hồ. Một chiếc đồng hồ là một vật nó tự động
chuyển qua một loạt sự kiện (khoảng) bằng nhau (trong thực tế) Số khoảng (thời
gian đồng hồ) trôi qua có tác dụng như một phép đo thời gian. Ý nghĩa của định
nghĩa này sẽ rõ ràng ngay nếu sự kiện xảy ra trong vùng lân cận vô cùng nhỏ của
đồng hồ trong không gian, đối với tất cả những người quan sát khi đó quan sát bằng
mắt đồng thời cùng một thời gian đồng hồ các sự kiện độc lập với vị trí của họ.Trước
khi thuyết tương đối được đưa ra, có giả
thuyết cho rằng khái niệm về tính đồng thời có một ý nghĩa khách quan tuyệt đối
cho cả các sự kiện cách biệt nhau trong không gian.
Giả
thuyết trên đã bị bác bỏ bởi việc phát minh ra định luật về sự truyền ánh sáng.
Vì nếu tốc độ của ánh sáng trong chân không là một lượng độc lập với lựa chọn
(hay với trạng thái chuyển động) của hệ quán tính mà nó đang được qui chiếu
vào, không có ý nghĩa tuyệt đối nào có
thể gán cho khái niệm về tính đồng thời của các sự kiện xảy ra ở các điểm cách
biệt nhau bằng một khoảng cách trong
không gian. Hơn nữa, với mỗi hệ quán tính phải định rõ một thời gian
riêng. Nếu không có hệ toạ độ (hệ quán tính) nào được dùng làm cơ sở qui chiếu
thì khẳng định rằng các sự kiện tại các điểm khác nhau trong không gian xảy ra
đồng thời, là vô nghĩa. Không gian và thời gian được gắn kết với nhau thành một
continum thống nhất bốn chiều chính là do hệ quả của điều này.
A.E.
Hiếu Tân dịch (2005)
Xem thêm bài của Bertrand Russell
Hiếu Tân dịch (2005)
Xem thêm bài của Bertrand Russell
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét