Truyện ngắn
FLANNERY O’CONNOR
Hiếu Tân dịch
Flannery O’Connor (1925-1964) nhà văn Mỹ, bà được coi là một gương mặt quan trọng trong văn học Mỹ.
Tiểu
thuyết:
Dòng máu thông minh, 1952
Bạo tàn đã cuốn nó đi, 1960
Các tập truyện
ngắn:
Thời buổi này người
tốt khó tìm, 1955
Tăng tiến thì phải
đồng quy, 1965
Những câu chuyện hoàn
chỉnh, 1971
***
Bà nội không muốn đi Florida. Bà muốn đi thăm một vài người
quen ở đông Tennessee, và bà tận dụng mọi cơ hội làm thay đổi quyết định của
Bailey. Bailey là người con mà bà đang ở cùng, là con trai duy nhất của bà. Anh
đang ngồi trên mép ghế cạnh bàn cúi xuống đọc mục thể thao màu cam trong tờ Journal. “Này nhìn đây, Bailey” bà nói
“Trông đây, đọc cái này đi” và bà đứng một tay chống nạnh một tay khua loạt soạt
tờ báo bên cạnh chiếc trán hói của anh. “Đây, một gã tự xưng là “Misfit” vừa trốn
thoát khỏi Nhà Tù Liên Bang, và đang thẳng hướng sang Florida, con nhìn đây,
xem nó nói nó đã làm gì mọi người. Cứ đọc đi. Tôi chẳng ngu gì đưa con cái tôi
đi cùng hướng với một tên tội phạm vừa vượt ngục. Tôi không thể trả lời lương
tâm tôi nếu tôi làm thế”
Bailey chẳng buồn ngẩng
lên khỏi bài báo anh đang đọc, nên bà hướng sang mẹ bọn trẻ, một thiếu phụ trễ
nải, có khuôn mặt to tròn ngây thơ như một chiếc bắp cải, lại quấn một chiếc
khăn xanh có hai nút trên đầu trông như đôi tai thỏ. Chị đang ngồi trên ghế
sofa, xúc mứt mơ từ trong chiếc hũ bón cho đứa bé. “Bọn trẻ đã được đến Florida
rồi” Bà cụ nói. “Các con phải cho chúng nó đến một vùng nào khác để thay đổi,
sao cho chúng nó được thấy những vùng đất mới và được mở rộng tầm mắt. Chúng nó
chưa bao giờ được thấy miền đông Tennessee”
Mẹ bọn trẻ dường như
chẳng nghe bà, nhưng thằng bé tám tuổi, John Wesley, chắc mập và đeo kính, nói
“Nếu bà không muốn đi Florida, sao bà không ở nhà đi?” Nó với con em June Star
đang ngồi trên nền nhà đọc truyện tranh.
“Có cho bà làm bà
chúa trong một ngày bà cũng không chịu ở nhà đâu” June Star nói mà không ngẩng
mái đầu vàng hoe của nó lên.
“Được nhưng nếu ngộ
nhỡ thằng Misfit này tóm được cháu thì sao nào? ”
“Thì cháu tát vào mặt
nó” John Wesley nói.
“Có cho bà một triệu
đồng bây giờ bà cũng chẳng chịu ở nhà đâu”. June Star nói “Bà sợ thiệt đấy mà.
Bà cứ phải đi bất cứ nơi nào chúng ta đi”
“Được nhé, tiểu thư.”
Bà nội nói. “Cứ nhớ lấy lần sau cô đừng có mà nhờ tôi uốn tóc cho”
June Star nói tóc nó
quăn tự nhiên.
Sáng hôm sau bà nội
là người đầu tiên lên xe, sẵn sàng xuất phát. Bà để chiếc va li đen to đùng của
bà trông như đầu con hà mã vào một góc, bên dưới nó bà dấu một cái giỏ chứa
Pitty Sing, con mèo yêu của bà. Bà không muốn để con mèo phải trơ trọi một mình
ở nhà những ba ngày bởi vì bà sẽ nhớ nó lắm, bà lại sợ biết đâu nhỡ nó chạm phải
cái bếp ga thành ra nghẹt thở. Con trai bà, Bailey, thì không muốn khi đến
khách sạn lại có mang theo con mèo.
Bà ngồi ở giữa băng
sau với John Wesley và June Star ngồi hai bên bà. Bailey với mẹ bọn trẻ và bé
út mới sanh ngồi băng trước, và họ rời Atlanta lúc tám giờ bốn lăm, trên đồng hồ
tốc độ số dặm đã đi là 55890. Bà nội ghi lại con số này vì bà nghĩ sẽ thật thú
vị khi về đến nhà biết được đã qua bao dặm đường. Mất hai mươi phút mới ra đến
con đường vành đai thành phố.
Khi đã ngồi yên vị
thoải mái, bà cụ tháo đôi găng tay bằng vải bông trắng và đặt nó cùng với chiếc
xắc tay lên cái giá nhỏ ở trước băng ghế sau. Mẹ lũ trẻ vẫn mặc bộ đồ thường
ngày, đầu vẫn chít chiếc khăn xanh lá cây, nhưng bà nội đội chiếc mũ lính thủy
màu xanh dương trên vành có đính một chùm hoa violet, bà mặc bộ áo váy màu xanh
nước biển có in những chấm trắng nhỏ, cổ áo và tay áo bằng vải phin organdie trắng
viền đăng ten, trên đường viền cổ áo bà ghim một chùm hoa violet bằng vải có cả
một chiếc túi nhỏ ướp nước hoa. Trong trường hợp xảy ra tai nạn, bất kỳ ai nhìn
thấy bà chết trên đường cũng sẽ biết ngay đây là một bà già quý phái.
Bà bảo bà nghĩ rằng
hôm nay thật là một ngày đẹp trời không nóng quá không lạnh quá, và bà cảnh báo
Bailey rằng tốc độ giới hạn là năm mươi lăm dặm một giờ và rằng bọn tuần cảnh
hay nấp sau các bảng thông báo và các bụi cây và đuổi theo anh trước khi anh kịp
giảm tốc. Bà chỉ ra những chi tiết thú vị của cảnh vật: dãy Núi Đá, những giải
granit màu xanh ở nhiều đoạn chạy ra sát tới hai bên đường cao tốc, những bờ đất
sét đỏ rực lướt qua thành những vệt màu tía, nhiều loại hoa màu mọc thành những giải xanh mướt trên đồng đất.
Cây cối tràn ngập ánh nắng trắng như bạc, những lùm cây thấp cũng lung linh.
Hai đứa trẻ chúi mũi đọc truyện tranh, mẹ chúng tiếp tục ngủ.
“Ba ơi chạy nhanh
nhanh qua Georgia để khỏi phải nhìn nó nhiều quá” John Wesley nói.
“Nếu bà ở vào địa vị
đứa trẻ như cháu, bà sẽ không nói về đất
nước quê hương của mình bằng cái giọng như thế”. Bà nội nói. “Tennessee có nhiều
núi cao, còn Georgia có nhiều đồi”
“Tennessee là vùng đồi lè tè khỉ ho cò gáy, còn Georgia cũng
là một bang cà mèng như thế”
“Anh nói thế” June
Star nói.
“Vào thời của bà” bà
nội gập những ngón tay gày guộc đầy gân xanh, nói “Trẻ con kính trọng đất nước
quê hương của chúng, kính trọng cha mẹ chúng và nhiều thứ khác. Hồi ấy người ta
sống đúng đắn hơn bây giờ. Ô, nhìn kia thằng bé tí con ngộ chưa kìa!” Bà nói và
chỉ tay ra một thằng bé da đen đứng trước cửa một cái lều. “Trông đã giống một
bức tranh chưa?” Bà hỏi và mọi người ngoảnh ra nhìn thằng bé da đen qua cửa
kính sau. Nó vẫy tay.
“Nó chẳng mặc quần gì cả” June Star nói.
“Có lẽ nó chẳng có cái quần nào” Bà nội giải thích. “Trẻ con da đen ở
nông thôn không có đồ dùng như chúng ta đâu. Nếu bà biết vẽ, bà đã vẽ bức tranh
này” Bà nói.
Hai đứa đổi truyện tranh cho nhau.
Bà nội đưa tay muốn
bế bé út, và mẹ nó đưa nó cho bà qua lưng ghế. Bà đặt nó lên đầu gối, buộc lại
tã cho nó và kể cho nó nghe về những cảnh vật đang lướt qua. Bà đảo mắt, chúm
môi và áp sát khuôn mặt da nhăn nheo của bà vào cái má mịn màng của nó. Đôi lúc
nó nở nụ cười ngây ngô với bà. Xe chạy qua những cánh đồng bông trong đó có năm
sáu ngôi mộ có hàng rào bao quanh, giống như những hòn đảo nhỏ. “Nhìn những
ngôi mộ kìa” Bà nội chỉ tay nói “Đó là khu mộ một gia đình của một dòng họ lâu
đời. Khu ấy thuộc về đồn điền”
“Thế đồn điền đâu?”
John Weyley hỏi.
“Cuốn Theo Chiều
Gió” Bà nội nói.
“Ha, ha, ha”
Khi bọn trẻ đọc hết
những cuốn truyện tranh chúng mang theo, chúng mở bữa trưa ra ăn. Bà nội ăn
bánh mì kẹp bơ và một quả ôliu, và không cho bọn trẻ quẳng rác ra ngoài cửa sổ.
Khi không còn việc gì để làm chúng chơi trò chơi bằng cách chọn đám mây và bảo
đứa kia đoán xem nó giống cái gì. John Weyley chỉ đám mây hình con bò và June
Star bảo nó giống con bò, John Weyley bảo không, đó là cái ô tô, và June Star
nói anh chơi ăn gian, rồi chúng bắt đầu phát nhau qua người bà nội.
Bà nội bảo bà sẽ kể
chuyện nếu chúng chịu yên lặng. Khi bà kể chuyện bà đảo mắt, lắc đầu trông rất
kịch. Bà bảo khi bà còn là một tiểu thư có ông Edgar Atkins Teagarden từ
Jasper, Georgia theo đuổi. Ông ấy rất đẹp trai và lịch sự, và mỗi chủ nhật ông ấy
lại mang đến cho bà một quả dưa hấu có khắc ba chữ cái tên ông ấy là E.A.T. Ờ,
rồi một chủ nhật ông ấy mang dưa hấu đến nhưng không có ai ở nhà nên ông ấy để
nó ở cổng rồi lên chiếc xe độc mã trở về
Jasper. Nhưng bà không bao giờ nhận được quả dưa ấy, bởi vì có một thằng bé da
đen khi trông thấy chữ EAT (ăn) trên quả dưa đã ăn nó. Câu chuyện đã cù đúng chỗ
John Wesley nên cu cậu cười lăn cười lộn nhưng June Star thấy nó chẳng hay tí
nào. Nó nói nó không bao giờ lấy một người mà chủ nhật chỉ mang đến cho nó một
quả dưa hấu. Bà nội nói nếu bà lấy ông Teagarden thì quá tốt vì ông ấy là một
người rất lịch sự và đã mua cổ phiếu Coca Cola ngay khi nó vừa ra, và ông mới
chết cách đây mấy năm, và rất giàu có.
Họ dừng lại ở quán
Tower để ăn bánh kẹp thịt quay.
Tower là một trạm đổ
xăng nửa tường xây nửa lát gỗ và một phòng nhảy, nằm ở khoảng đất trống ngoại ô Timothy. Chủ quán là một
người tên là Red Sammy Butts, và khắp nơi trên tường nhà cũng như nhiều dặm ngược
xuôi đường cao tốc có dán biển hiệu ghi: HÃY NẾM THỬ THỊT QUAY NỔI TIẾNG CỦA
RED SAMMY! KHÔNG ĐÂU NGON BẰNG RED SAMMY NỔI TIẾNG! GÃ BÉO CÓ KHUÔN MẶT CƯỜI RẠNG
RỠ! MỘT CỰU CHIẾN BINH! RED SAMMY NGƯỜI ĐÀN ÔNG CỦA BẠN!
Red Sammy đang nằm
trên mặt đất bên ngoài quán Tower, đầu bác ta chui dưới gầm một chiếc xe tải,
có một con khỉ lông xám cao độ ba mươi phân được xích vào gốc cây dâu đang líu
ríu bên cạnh. Vừa trông thấy lũ trẻ ra khỏi xe và lại gần con khỉ vội vọt lên
cây và trèo lên cành cao nhất.
Bên trong, quán
Tower là một căn phòng dài và tối, một đầu có quầy bán hàng, đầu kia kê nhiều
bàn ghế, và một sàn nhảy ở giữa. Mọi người ngồi quanh một chiếc bàn rộng cạnh một
máy chơi nhạc tự động, và vợ Red Sam, một phụ nữ da xẫm màu, tóc và mắt còn
sáng hơn màu da, đến để nghe gọi món. Mẹ đám trẻ bỏ một đồng hào vào máy và điệu
vanxơ Tennessee vang lên, và bà nội nói nghe nhạc bà lại muốn nhảy. Bà hỏi
Bailey có thích nhảy không nhưng anh ta chỉ lườm bà. Anh ta không có khuynh hướng
vui vẻ tự nhiên như bà, và chuyến đi làm anh ta nhức đầu. Đôi mắt nâu của bà nội
rất sáng. Bà lắc lư cái đầu và ngồi trên ghế giả vờ nhảy. June Star nói nó
thích điệu nhạc nào mà nó có thể gõ gót nhảy theo, nên mẹ nó cho thêm một đồng
hào khác vào máy và chọn một điệu nhạc nhanh hoạt, và June Star bước ra sàn nhảy
điệu nhảy của nó.
“Xinh quá nhỉ” Vợ Red
Sam tựa người vào quầy nói. “Cháu có thích ở đây làm con của bác không?”
“Không, chắc chắn là
không” June Star trả lời “Có cho ngàn đô tôi cũng chả chịu sống ở một nơi tồi
tàn như thế này” và nó chạy về bàn.
“Cô bé xinh thật”,
người đàn bà lặp lại, uốn môi một cách lịch sự.
Bà nội xuỵt “Cháu
không biết xấu hổ à?”
Red Sam bước vào bảo
vợ thôi đừng bám lấy cái quầy nữa mà hãy nhanh tay mang đồ ăn cho khách. Chiếc
quần ka ki của bác ta chỉ kéo đến xương hông và bụng bác ta xệ ra ngoài như một
chiếc bao bột đung đưa bên dưới áo sơmi. Bác ta bước đến ngồi xuống bàn kế bên
rồi buông ra một tiếng thở dài. Chuyển sang giọng kim, bác ta nói “Chẳng biết
làm sao được” và lau mồ hôi trên khuôn mặt đỏ bằng chiếc khăn tay màu xám. “Thời
buổi này không còn biết tin ai” Bác ta nói “Không đúng sao?”
“Rõ ràng bây giờ người
ta không tử tế bằng ngày xưa” bà nội nói.
“Tuần trước có hai gã
sơn tràng đến đây” Red Sammy nói “Lái một chiếc Chrysler. Đó là một chiếc xe cũ
bên ngoài trông tã nhưng máy còn tốt, và hai tay kia trông cũng được không đến
nỗi nào. Nói chúng nó làm ở xưởng máy, bà biết không và tôi đã cho chúng nó chịu
tiền xăng. Vậy tại sao tôi lại làm thế?”
“Bởi vì bác là người
tốt ” bà nội nói ngay.
“Đúng thưa bà, tôi
cho là thế” Red Sam nói như thể bị công
kích bởi câu trả lời ấy.
Bà vợ mang thức ăn ra, mang năm đĩa một lúc không cần khay,
mỗi bàn tay cầm hai đĩa, một đĩa kẹp giữa hai cánh tay. “Đó không phải là một
linh hồn trong cõi Chúa mà ông có thể tin” bác ta nói “Và tôi không đòi hỏi ai
chuyện đó, không một ai” bác ta nhìn Red Sam, lặp lại.
“Bác đã đọc tin về
gã tội phạm đó chưa, cái gã Misfit trốn tù ấy?” bà nội hỏi.
“Tôi không mảy may
ngạc nhiên nếu nó tấn công chỗ này ngay bây giờ” Người đàn bà kia nói “Nếu nó
nghe thấy mọi chuyện ở đây, tôi không ngạc nhiên tí tẹo nào nếu trông thấy nó.
Nếu nó nghe thấy có hai xu trong két, tôi không ngạc nhiên khi nó…”
“Thôi đủ rồi” Red
Sam nói “Ra mang Coca cho các vị đây” người vợ đi ra lấy đồ uống cho khách.
“Bây giờ tìm ra một
người tốt khó lắm” Red Sam nói. “Mọi thứ bây giờ càng ngày càng kinh khủng. Tôi
cứ nhớ cái thời có thể ra khỏi nhà mà không cần cài cửa. Chẳng bao giờ còn thấy
nữa”
Bác ta trò chuyện với
bà nội về cái thời tốt đẹp xa xưa. Bà cụ bảo theo ý kiến bà Châu Âu hoàn tòan
đáng trách về tất cả tình trạng tồi tệ hiện nay. Bà nói cái cách Châu Âu xử sự
cứ như chúng ta vẽ ra được tiền, và Red Sam nói điều ấy chẳng cần phải nói, bà
hoàn toàn đúng. Bọn trẻ chạy ra chơi ngoài nắng, và đến xem con khỉ buộc bên
cây dâu. Nó đang rối rít bắt bọ chét trên người nó và cắn từng con giữa hai hàm
răng, làm như thanh nhã lắm.
Buổi chiều trời nóng
nực họ lại tiếp tục lên đường. Bà nội ngủ chập chờn chốc chốc lại thức dậy vì
tiếng ngáy của chính mình. Đến bên ngoài Toombsboro bà tỉnh hẳn và nhớ đến một
cái đồn điền cũ ở quanh đâu đây mà có lần khi còn là một cô tiểu thư bà đã đến
thăm. Bà nói ngôi nhà có sáu hàng cột trắng ở mặt tiền, và có một con đường lớn
hai bên trồng sồi dẫn thẳng tới đó, lại có hai hàng dây leo trên dàn gỗ mát rượi
mà bà thường cùng với chàng trai cầu hôn bà ngồi nghỉ sau những cuộc dạo chơi
trong vườn. Bà nhớ lại chính xác con đường nào rẽ vào đó. Bà biết rằng Bailey
chẳng chịu phí chút thì giờ ghé vào xem một ngôi nhà cũ, nhưng càng nói về nó
bà lại càng muốn nhìn thấy nó lần nữa để xem hai hàng dây leo có còn đó không.
“Trong ngôi nhà đó còn có một cửa hầm bí mật” bà nói giọng láu cá điều bà bịa
ra nhưng muốn tin là thật. “Nghe nói toàn bộ của cải vàng bạc nhà đó đều giấu
sau cửa ấy, có thời Sherman đã đến nhưng không tìm ra”
“Hê” John Wesley nói
“Ghé đó đi ba, chúng ta sẽ tìm thấy kho báu. Chúng ta sẽ thọc vào tất cả những
chỗ bằng gỗ và sẽ tìm ra. Ai sống ở đó? Rẽ vào lối nào hở bà? Kìa ba! Rẽ vào đi
ba”
“Chúng ta chưa bao
giờ thấy một ngôi nhà có cửa hầm bí mật” June Star hét lên “Chúng ta sẽ vào xem
ngôi nhà có cửa hầm bí mật! Ba ơi ghé vào ngôi nhà có cửa hầm bí mật đi ba”
“Cũng không xa đây lắm.
Tôi biết” Bà nội nói “Chỉ độ hai mươi phút thôi”
Bailey đang nhìn thẳng.
Quai hàm anh nhô ra, cứng như một cái móng ngựa. “Không”, anh nói.
Bọn trẻ bắt đầu la
hét rằng chúng muốn vào xem ngôi nhà có hầm bí mật. John Wesley đạp thình thịch
và lưng ghế trước, còn June Star đu lên vai mẹ nó và nhai nhải rằng nghỉ hè rồi
mà chúng chẳng có gì vui, và không bao giờ chúng được làm những thứ mà CHÚNG muốn.
Bé út bắt đầu khóc thét và John Wesley đá lưng ghế trước mạnh đến nỗi ba nó thấy
như bị đấm vào lưng.
“Được rồi” ba nó
quát lên và cho xe dừng lại bên vệ đường. ‘Có im tất cả không. Hai đứa này có
câm miệng lại không? Nếu chúng mày không im, thì không có đi đâu cả”
“Cứ phải cho chúng
nó một trận như thế” bà nội nói.
“Thôi được” Bailey
nói “Đây là lần duy nhất chúng ta dừng lại vì một chuyện như thế này. Một lần
và chỉ một lần này thôi”
“Con đường đất mà
đáng lẽ con phải rẽ vào cách đây một dặm” Bà nội nói. “Mẹ đã chỉ nó khi chúng
ta đi qua”
“Hừ! Con đường đất” Bailey gừ gừ.
Sau khi quay đầu xe
chạy về phía con đường đất, bà cụ nhớ lại một chi tiết về ngôi nhà ấy, đó là cửa
kính sáng choang ở mặt trước và cây đèn chùm trong đại sảnh. John Wesley nói cửa
hầm bí mật có lẽ trên lò sưởi.
“Các con không được vào trong nhà. Mình chưa biết ai sống ở đó” Bailey
nói.
“Trong khi ba nói chuyện với họ ở cửa trước, con vòng ra sau và trèo qua cửa sổ” John Wesley đề nghị.
“Trong khi ba nói chuyện với họ ở cửa trước, con vòng ra sau và trèo qua cửa sổ” John Wesley đề nghị.
“Tất cả chúng ta ở yên trong xe” Bà mẹ nói.
Xe chạy vào con đường
đất cuốn theo lớp bụi đỏ mù mịt đằng sau. Bà nội nhớ lại ngày xưa chưa có đường
đá đi ba mươi dặm phải mất cả ngày. Con đường đất đồi có nhiều chỗ lên xuống đột
ngột, những cua gấp nguy hiểm. Thình lình họ thấy mình ở trên đồi nhìn xuống
xung quanh qua những tán cây xanh ra xa hàng dặm, rồi một phút sau lại ở dưới
đoạn đường võng đỏ quạch nhìn lên những tán cây phủ bụi.
“Một phút nữa mà
không thấy là tôi quay xe”. Bailey nói.
Con đường trông như
thế hàng tháng trời không ai bước chân qua.
“Không còn xa nữa
đâu” Bà nội nói, và đúng lúc bà nói, một ý nghĩ khủng khiếp thoáng qua trí óc
bà. Ý nghĩ ấy bối rối đến mức mặt bà đỏ ửng lên, mắt bà dãn ra và đôi chân nảy
bật lên, làm lật nghiêng chiếc vali trong góc. Chiếc va li đổ làm cho tờ giấy
báo bà dùng để đậy chiếc giỏ bên dưới bỗng bay vung lên với một tiếng gừ và
Pitty Sing, con mèo, nhảy tót lên vai Bailey.
Bọn trẻ bị quăng xuống
sàn, và mẹ chúng, ôm chặt đứa bé, bị ném ra ngoài cửa xe xuống mặt đường, bà cụ bị ném lên băng ghế trước.
Chiếc xe bị lật nghiêng sang bên trái xuống một khe sâu bên cạnh đường. Bailey
vẫn còn trong xe với con mèo- một con mèo
vằn với cái mặt trắng rộng và cái mũi đỏ, bám chặt cổ anh như một con bọ
cạp.
Ngay khi vừa thấy
tay chân chúng vẫn cử động được, bọn trẻ bò ra khỏi xe, gào lên “Chúng tôi bị
TAI NẠN” Bà nội bị cuộn tròn dưới bảng đồng hồ, hy vọng rằng bà bị thương chỗ
nào đó để cơn tức giận của Bailey không đổ ngay lên đầu bà. Cái ý nghĩ khủng
khiếp bà có trước khi xảy ra tai nạn là ngôi nhà mà bà nhớ đến một cách sống động
như thế không ở Georgia, mà ở Tennessee.
Bailey giằng con mèo
ra khỏi cổ anh bằng cả hai tay và quăng nó ra khỏi cửa sổ quật mạnh vào một
thân cây thông. Rồi anh ra khỏi xe và bắt đầu tìm mẹ lũ trẻ. Chị đang ngồi tựa
lưng trong lòng hào đỏ quạch, ôm đứa bé đang gào khóc, nhưng chị chỉ bị một vết
rách trên mặt và xương vai bị gãy. “Chúng tôi bị TAI NẠN” Hai đứa trẻ gào lên
trong một niềm vui sướng mê cuồng.
“Nhưng không có ai chết” June Star nói một cách thất vọng
khi bà nội khập khiễng ra khỏi xe, chiếc mũ vẫn còn gắn trên đầu bà nhưng vành
mũ phía trước đứt lìa vẫn lắt lẻo một góc rất nhộn, và chùm hoa violet treo lủng
lẳng một bên. Mọi người, trừ lũ trẻ, ngồi xuống con hào để lấy lại hồn vía. Họ
run rẩy.
“May ra có chiếc xe
nào chạy qua” mẹ bọn trẻ nói bằng giọng khản đặc.
“Mẹ chắc bị thương ở
đâu rồi” bà nội nói, ấn tay vào bên sườn, nhưng không ai trả lời bà. Răng
Bailey va nhau lách cách. Anh mặc chiếc áo thể thao màu vàng có in hình những
con vẹt màu xanh và mặt anh vàng như chiếc áo. Bà nội quyết định không nhắc đến
chuyện ngôi nhà ở Tennessee.
Mặt đường cách phía
trên đầu họ khoảng ba mét và họ chỉ nhìn thấy những chỏm cây ở phía bên kia đường.
Đằng sau cái hào mà họ đang ngồi còn có nhiều cây nữa, cao, tối và sâu. Ít phút
sau họ thấy một chiếc xe xuất hiện phía xa trên đỉnh một ngọn đồi, chạy chậm
như thể những người trong xe đang quan sát họ. Bà nội đứng dậy vẫy rối rít bằng
cả hai tay để thu hút sự chú ý của họ, Chiếc xe tiếp tục chạy chậm, khuất sau một
khúc quanh, rồi lại hiện ra, đi chậm hơn nữa, lên đỉnh ngọn đồi mà họ vừa đi
qua. Đó là một chiếc ô tô lớn màu đen đã mòn vẹt giống như một chiếc xe tang.
Trên xe có ba người.
Nó từ từ dừng lại
ngay phía trên đầu họ và trong mấy phút người tài xế cúi nhìn xuống chỗ họ ngồi
với cái nhìn trừng trừng vô cảm và không nói năng gì. Xong hắn quay đầu nói thầm
gì đó với hai người trong xe rồi bọn chúng bước ra. Một đứa trong bọn là một thằng
bé béo ị mặc chiếc quần đen và chiếc sơ mi đỏ trước ngực có thêu con ngựa màu bạc. Nó đi vòng qua bên phải họ và đứng
nhìn chăm chăm mồm hơi hé ra dáng như muốn toét ra cười. Thằng thứ hai mặc chiếc
quần ka ki và áo véc có xọc xanh, và một chiếc mũ trùm xuống rất thấp che gần hết
khuôn mặt nó. Nó đi chầm chậm vòng qua bên trái họ. Không nói.
Gã tài xế ra khỏi xe
và đứng bên cạnh xe. Gã lớn tuổi hơn hai thằng kía. Tóc gã đã bắt đầu hoa râm
và gã đeo cặp kính gọng bạc trông ra dáng trí thức. Gã có khuôn mặt dài nhàu
nhò, gã không mặc sơ mi hay áo lót gì hết, chỉ
mặc độc chiếc quần gin quá dài so với người và trong tay gã đang cầm một
chiếc mũ đen và một khẩu súng. Cả hai thằng kia cũng có súng.
“Chúng tôi bị TAI NẠN” Hai đưá trẻ gào
lên.
Bà nội có một cảm
giác đặc biệt rằng gã đeo kính kia là người mà bà biết. Khuôn mặt gã quen thuộc
với bà như thể bà đã biết gã cả đời nhưng bà không thể nhớ ra gã là ai. Gã ra
khỏi xe và bắt đầu đi xuống dưới đê, đặt chân cẩn thận từng bước để khỏi trượt.
Gã đi đôi giày màu nâu nhạt và trắng, không đi tất, để lộ mắt cá chân gày guộc
và đỏ au. “Xin chào cả nhà” gã nói “Tôi
thấy các vị ở đây đã bị lộn nhào đôi chút”
“ Xe chúng tôi bị lật hai lần” Bà nội nói.
“Mộộc lần” Gã chữa lại. “Chúng tôi đã thấy nó xảy ra. Hiram, thử chiếc
xe của họ xem nó còn chạy không.” Gã nói nhanh với thằng con trai đội mũ xám.
“Các ông cầm súng để
làm gì?” John Wesley hỏi “ Các ông làm gì với những khẩu súng đó?”
“Thưa bà” gã đàn ông nói với mẹ bọn trẻ “Xin Bà vui lòng để
lũ trẻ ngồi chung với bà. Trẻ con làm tôi nhức đầu. Tôi muốn mọi người ngồi gom
cả ở đây, chỗ các vị đang ngồi”
“Ông bảo CHÚNG TÔI làm thế để làm gì?” June Star hỏi.
Đằng sau họ hàng cây giống như một
cái mồm tối đen há hốc. “Lại đây” bà mẹ nói.
“Hãy nghe tôi”
Bailey bỗng dưng bắt đầu nói “Chúng tôi đang gặp cơn hoạn nạn! Chúng tôi
đang..” Bà nội rít lên đinh tai: Bà trườn
đứng thẳng lên nhìn chằm chằm “Ông là Misfit! Tôi nhận ra ông ngay”
“Đúng, tôi đấy” gã đàn ông nói, gã cười nhẹ như thể hài lòng
mặc dầu đã bị nhận ra. “Nhưng thưa quý
bà, sẽ tốt hơn cho tất cả các vị nếu chưa nhận dza tôi”
Bailey quay ngoắt đầu lại và nói điều gì đó với mẹ làm cho
ngay cả bọn trẻ cũng bị sốc. Bà cụ bắt đầu khóc và Misfit đỏ mặt lên.
“Bà” Misfit nói “Bà đừng hốt hoảng
quá. Đôi khi người ta nói thế mà không phải thế. Tôi đoán anh ta không định nói
với bà cái kiểu đó”
“Ông không bắn một bà
già chứ, phải không ông?” Bà nội nói và
rút trong tay áo ra một chiếc khăn tay sạch để chùi mắt.
Misfit dí mũi giày
xuống đất khoét thành một lỗ nhỏ rồi lại lấp đi ngay. “Tôi ghét phải làm thế”
“Xin ông hãy nghe tôi” bà nội gần như rú lên “Tôi biết ông là một người
tốt. Trông ông không có vẻ gì là hạ lưu cả. Tôi biết ông chắc chắn phải xuất
thân từ dòng dõi cao quý”
“Đúng đấy thưa bà”
Gã nói “Dòng dõi trong sạch nhất thế giới” Khi mỉm cười gã phô hàng răng trắng
khỏe. “Chúa chưa bao giờ tạo ra một phụ nữ tuyệt vời hơn mẹ của tôi, còn trái
tim cha tôi thì bằng vàng ròng” Gã nói.
Thằng con trai mặc
áo lót màu đỏ đi vòng ra sau họ và đứng với khẩu súng bên hông. Misfit ngồi xổm xuống. “Bobby Lee, mày trông chừng
lũ trẻ con. Mày biết đấy, chúng làm tao điên cái đầu” Gã nhìn sáu người bọn họ
ngồi xúm xít với nhau trước mặt gã và dường như bối rối không nghĩ được điều gì
để nói. “Trời không có một bóng mây” gã ngước mắt lên trời nhận xét. “Không thấy
mặt trời cũng chả thấy mây”
“Vâng, hôm nay đẹp
trời” Bà nội nói. “Ông nghe tôi” bà nói “Ông không nên tự gọi mình là Misfit bởi
vì tôi biết trong thâm tâm ông là một người tốt. Chỉ cần nhìn ông là tôi có thể
nói như thế”
“Hừ” Bailey la lên.
“Hừ. Mọi người im cả đi để yên cho tôi xử lý chuyện này”. Anh đang ngồi xổm
trong tư thế người chuẩn bị chạy nhưng anh không nhúc nhích.
“Tôi tính thế này, quý bà ạ” Gã
Misfit nói và dùng báng súng vẽ một vòng tròn nhỏ lên mặt đất.
“Cần nửa giờ để sửa chữa chiếc xe ở đây”.
Hiram nói, nhìn qua mui xe được nâng lên.
“Được. Trước hết mày
với thằng Bobby Lee đưa anh ta với thằng bé này bước quá ra đằng xa kia.”
Misfit đưa tay chỉ Bailey và John Wesley nói. “Hai thằng này muốn hỏi anh vài
câu chuyện” Gã nói với Bailey. “Anh có vui lòng quá bộ vào chỗ rừng kia với
chúng nó một lúc không?”
“Nghe đây” Bailey bắt
đầu nói. “Chúng tôi đang ở trong một hoàn cảnh hoạn nạn khủng khiếp. Không ai
biết là chuyện gì.” Rồi giọng anh ta gãy ra. Mắt anh ta xanh rực lên như những
con vẹt trên áo anh ta. Và anh ta giữ hoàn toàn bất động
Bà nội vươn người tới
để sửa lại vành mũ của anh như thể bà sắp ra đi cùng với anh, nhưng chiếc mũ ngả
ra nằm trong tay bà. Bà đứng đó nhìn trừng trừng chiếc mũ rồi buông nó rơi xuống
đất. Hiram xốc dưới cánh tay lôi Bailey đứng dậy như thể nó đang đỡ một ông
già. John Wesley nắm chặt bàn tay bố nó và Bobby Lee bước theo sau. Họ đi ra
phía rừng, và ngay khi họ đến mép rừng tối om Bailey bỏ chạy và trốn sau một
thân cây thông trần trụi, anh gào lên: “Con sẽ quay lại ngay sau vài phút, mẹ,
hãy đợi con”
“Quay trở lại ngay
lúc này” bà mẹ anh ta rít lên, nhưng tất cả bọn đã biến mất sau rừng cây.
“Bailey con!” Bà nội
gọi bằng giọng bi thảm nhưng bà thấy bà đang nhìn vào Misfilt ngồi xổm trước mặt
bà. “Tôi biết rõ ông là người tốt” Bà nói, giọng tuyệt vọng “Ông không phải hạng
tầm thường!“
“Không, tôi không phải
là người tốt” Misfilt nói sau một giây như thể gã đang cẩn thận cân nhắc lời
tuyên bố đó “Nhưng tôi cũng không phải là kẻ xấu xa nhất trên đời. Bố tôi bảo
giữa các anh chị em tôi tôi là một giống chó khác hẳn. Bà biết không bố tôi nói
có những kẻ sống suốt đời không bao giờ phải hỏi về nó, còn những kẻ khác cứ phải
biết tại sao nó như thế, và thằng bé này thuộc vào loại sau. Nó sẽ dính vào đủ
mọi thứ chuyện” Gã đội chiếc mũ đen của gã lên đầu và bỗng ngước nhìn lên rồi
nhìn xa vào rừng cây như thể gã lại thấy bối rối. “Tôi xin lỗi vì đã không có mặc
áo sơ mi trước các quý bà đây” Gã vừa hơi uốn cong đôi vai vừa nói. “Chúng tôi
đã chôn những quần áo chúng tôi mặc khi chúng tôi trốn trại, và chúng tôi chỉ
kiếm tí chút đến khi nào chúng tôi khá hơn. Chúng tôi mượn những cái này từ những
người chúng tôi gặp trên đường” Gã giải thích.
“Điều đó hoàn toàn đúng” Bà cụ nói “Có lẽ Bailey có một chiếc sơ mi còn
dư trong va ly của nó”.
“Tôi sẽ chực tiếp xem” Misfit
nói.
“Họ đưa anh ấy đi đâu?” mẹ bọn trẻ gào lên.
“Bản thân bố tôi
cũng là một tay chịu chơi. Không ai có thể buộc tội ông ấy điều gì. Ông ấy cũng
không bao giờ gặp rắc rối với nhà trức
trách. Chẳng qua là ông ấy có mẹo sử sự với họ”
“Ông cũng có thể là
lương thiện nếu ông chỉ cần cố gắng.” Bà nội
nói. “Thử nghĩ xem sẽ tuyệt vời biết bao nếu tìm được chỗ yên ổn sống một
cuộc đời thoải mái tiện nghi và không phải nghĩ rằng lúc nào cũng có người săn
đuổi theo mình”
Misfit vẫn lấy báng
súng cào cào lên mặt đất như thể đang nghĩ ngợi về điều đó. “Đúng rồi, thưa bà,
lúc nào cũng có người săn đuổi theo mình” gã lầm rầm nói.
Bà nội nhận thấy nhánh
xương vai dẹt của gã rất gày gò đằng sau chiếc mũ, vì bà đang đứng nhìn xuống
gã. “Ông có bao giờ cầu nguyện không?” bà hỏi.
Gã lắc đầu. Bà chỉ nhìn thấy chiếc mũ đen lắc
lư giữa hai nhánh xương vai của gã. “Hông”
gã nói.
Có tiếng súng nổ
trong rừng, một tiếng khác tiếp theo liền. Rồi im lặng. Đầu bà nội giật lên. Bà
nghe thấy tiếng gió vi vút trên những ngọn cây giống như tiếng thở hít vào thỏa
mãn. “Bailey con ơi” bà gọi.
“Có lúc tôi đã là một
ca sĩ hát thánh ca” Misfit nói “Tôi hầu như đã làm tất cả mọi thứ. Đã phục vụ
trong quân đội, cả lục quân hải quân, cả trong nước ngoài nước, hai lần lấy vợ,
làm người khiêng đòn đám ma, làm việc trong đường sắt, cày Đất Mẹ, đã ở trong
cuộc bạo loạn, có lần thấy người bị thiêu sống” rồi gã nhìn lên người mẹ và cô
gái nhỏ đang ngồi cạnh nhau, mặt trắng bệch và mắt đờ đẫn không hồn.
“Thậm chí có lần tôi thấy một phụ nữ bị đánh nhừ tử”
“Cầu nguyện, cầu nguyện” bà nội bắt đầu nói. “Cầu nguyện, cầu nguyện”
“Tôi không bao giờ
là đứa trẻ hư hỏng mà tôi nhớ đến” Misfit nói với giọng gần như mơ mộng “Nhưng
trên đường đi đôi lúc tôi đã làm đôi ba việc sai trái và bị tống vào nhà giam.
Tôi bị chôn sống”
Gã ngước nhìn lên và níu giữ sự chú ý của bà vào cái nhìn chằm chằm của
gã.
“Chính những lúc ấy là lúc ông nên bắt đầu cầu nguyện” bà nói “Lần đầu
ông làm gì để đến nỗi bị đưa vào trại giam?”
“Quay sang bên phải,
đó là bức tường” Misfit lại nhìn lên bầu trời không một gợn mây, nói. “Quay
sang bên phải, đó là bức tường. Nhìn lên đó là trần, nhìn xuống đó là sàn nhà.
Tôi quên hết mọi thứ tôi đã làm, thưa quý bà. Tôi ngồi đó, ngồi đó cố nhớ lại
việc gì tôi đã làm và cho đến hôm nay tôi vẫn không nhớ được. Có lần tôi đã
nghĩ nó đến với tôi, nhưng nó không bao giờ đến”
“Có lẽ họ bắt ông vào đấy vì nhầm lẫn” bà cụ nói một
cách không chắc chắn lắm.
“ Không. Đấy không phải nhầm lẫn đâu. Họ có cả hồ sơ về tôi”
“ Chắc ông đã ăn trộm vật gì”
Misfit hơi nhếch mép “ Không ai có cái mà tôi muốn” gã nói
“Chính một bác sĩ trưởng trong trại giam
đã bảo việc tôi đã làm là giết bố tôi nhưng tôi biết đó là nói láo. Bố tôi chết
năm một chín một chín vì dịch cúm và tôi không có liên quan gì chuyện đó. Ông
được chôn ở nghĩa địa Mount Hopewell Baptist và bà có thể đến đó tự nhìn bằng mắt
mình”
“Nếu ông cầu nguyện
thì Giê xu cứu giúp ông” Bà cụ nói.
“Đúng thế đấy”
Misfit nói.
“Vậy thế sao ông
không cầu nguyện đi?” bà hỏi, run lên vì nỗi vui mừng đột ngột.
“Tôi không muốn được
cứu giúp” gã nói “Tự tôi làm được rồi”
Bobby Lee và Hiram
thông thả từ trong rừng bước lại. Bobby Lee kéo lê theo một chiếc sơ mi vàng có những con vẹt xanh
trên ngực áo.
“Ném chiếc áo cho
tao, Bobby Lee” Misfit nói. Chiếc áo bay về phía gã và đậu trên vai gã và gã mặc
nó vào. Bà nội không thể nói chiếc áo gợi cho bà nhớ lại điều gì. “Không, thưa
bà” Misfit nói trong khi gã cài cúc “Tôi thấy ra rằng tội ác không thành vấn đề.
Anh có thể làm việc này hay việc khác, giết một người hay lấy chiếc lốp khỏi xe
của hắn, bởi vì sớm hay muộn gì rồi anh cũng quên việc anh đã làm và bị trừng
phạt vì việc đó”
Mẹ bọn trẻ bắt đầu gào thét ầm ĩ đến đứt hơi.
“Bà có muốn đi ra đằng
kia cùng với Bobby Lee và Hiram đến chỗ chồng bà không?”
“Có, thưa ông” người
mẹ nói yếu ớt. Cánh tay phải của chị lủng lẳng một cách vô vọng, tay kia chị ôm
đứa bé đang ngủ. “Giúp bà này đứng lên, Hiram”
Misfit nói trong khi cố trèo lên mặt đường “Còn Bobby Lee, mày cầm tay
cô bé kia”
“Tôi không muốn anh
ta cầm tay” June Star nói. “Nó làm tôi nhớ đến con lợn”
Thằng béo đỏ mặt lên,
cười và nắm lấy cánh tay cô bé lôi cô xềnh xệch vào rừng theo sau Hiram và mẹ
cô.
Còn lại một mình với
Misfit, bà cụ cảm thấy mình mất hết tiếng. Trên trời không một gợn mây, không
có mặt trời. Xung quanh bà chẳng có gì ngoài rừng cây. Bà muốn bảo gã cần phải
cầu nguyện. Bà hé mồm ra rồi ngậm lại nhiều lần mà chưa nói được câu gì. Cuối
cùng bà thấy mình nói “Giê xu, Giê xu” có nghĩa là Giê xu sẽ cứu giúp anh,
nhưng cái cách bà nói câu ấy nó vang lên như thể bà đang nguyền rủa.
“Vâng, thưa bà”
Misfit nói giống như gã đồng ý “Giê xu làm cho mọi thứ mất cân bằng. Cùng một
hoàn cảnh như Chúa và như tôi, chỉ có điều ông ấy không phạm một tội ác nào còn
tôi thì người ta có thể chứng minh tôi đã phạm tội bởi vì họ có cả hồ sơ về
tôi. Tất nhiên” gã nói, “Họ không bao giờ cho tôi xem những hồ sơ ấy. Đó là lý
do tại sao tôi ký tên mình vào. Tôi nói đã từ lâu rồi, anh có một chữ ký và anh
ký nhận mọi thứ anh làm và anh không thể ngăn giữ cho tội ác của anh khỏi bị trừng
phạt và xem trừng phạt ấy có xứng với tội
của anh không và cuối cùng anh sẽ có một cái gì đó chứng tỏ rằng anh đã bị đối
xử không đúng. Tôi tự gọi tôi là Misfit (“Trật Lất”) gã nói, bởi vì tôi chịu
không thể ghép cho khớp những chuyện bậy bạ tôi đã làm với những hình phạt mà
tôi đã phải chịu.
Có một tiếng rú khủng
khiếp từ trong rừng vọng ra, tiếp liền theo là tiếng súng nổ. “Có vẻ như điều
này đối với bà là đúng, thưa quý bà, khi một kẻ phải chịu trừng phạt quá nhiều
trong khi kẻ khác lại không hề phải chịu gì cả”.
“Giê xu” bà cụ khóc.
“Ông có dòng máu tử tế! Tôi biết ông sẽ không bắn một bà già. Tôi biết ông thuộc
dòng dõi cao quý. Cầu nguyện đi. Giê xu, ông không nên bắn một bà già. Tôi sẽ
đưa ông tất cả số tiền tôi có”
“Quý bà” Trật Lất nói, nhìn qua đầu bà lão vào
phía rừng “Chưa bao giờ có một xác chết nào cho người mai táng tiền boa cả”
Có thêm hai tiếng súng nổ nữa và bà cụ nghểnh đầu lên giống như con gà
tây khát nước và gọi “Bailey con, Bailey con ơi” như thể tim bà đang vỡ ra.
“Giê xu là Người duy
nhất làm người chết sống lại”, Trật Lất nói “mà lẽ ra Ông ấy không nên làm như
vậy. Ông ấy làm cho mọi vật mất cân bằng. Nếu ông ấy làm những gì ông ấy nói
thì người ta không còn việc gì phải làm nữa, ngoài việc vứt mọi thứ đi và đi
theo Ông ấy, còn nếu ông ấy không làm những gì ông ấy nói thì người ta cũng
không còn việc gì phải làm nữa, ngoài việc hưởng thụ vài phút còn lại theo cách
nào hay nhất – bằng cách giết một người nào đó hoặc đốt nhà hắn hoặc làm một việc
hèn hạ nào khác đối với hắn. Không phải vui thú mà là hèn hạ”. Gã nói và giọng
gã trở nên gần như gầm ghè.
“Có thể Người sẽ
không làm người chết sống lại”. Bà cụ nói lầm bầm, bà không biết bà đang nói
gì, và cảm thấy choáng váng đến mức bị thụt xuống hào và đôi chân bà vặn vẹo dưới
thân hình bà.
“Tôi không ở đó nên không thể nói rằng Người không làm” Trật
Lất nói “Tôi ước gì tôi có ở đó” Gã đấm nắm tay xuống đất nói “Việc tôi không
có ở đó là không đúng bới vì nếu tôi đã có ở đó tôi phải biết. Nghe đây bà già”
Gã cao giọng nói “nếu tôi đã có ở đó tôi đã phải biết và tôi đã không giống như
tôi bây giờ”. Giọng gã răng rắc và trong phút chốc bà cụ thấy đầu mình dãn ra một
chút. Bà thấy mặt gã đàn ông nhăn nhúm lại, như thể gã sắp khóc, và bà lầm rầm
“Tại sao anh lại là con tôi. Anh là một trong số con tôi” Bà vươn ra chạm tay
vào vai gã. Trật Lất vùng ra sau như thể một con rắn đã cắn gã, và bắn ba phát
vào ngực bà. Rối gã bỏ súng xuống đất, bỏ kính ra và bắt đầu lau nó.
Hiram và Bobby Lee từ
rừng trở về đứng trên bờ mương nhìn xuống bà cụ nửa nằm nửa ngồi trong một vũng
máu với hai cẳng chân bắt chéo giống như trẻ con và khuôn mặt bà mỉm cười lên bầu
trời không mây.
Không có kính đôi mắt
của Trật Lất trông viền đỏ, tái ngoét và trơ ra không có gì bảo vệ. “Kéo bà ấy
đi và ném vào chỗ chúng mày đã ném bọn kia.” Gã vừa nói vừa nhặt con mèo lên,
con mèo này vừa cọ mình vào chân gã.
“Bà này lắm mồm quá, đúng không?” Bobby Lee
nói, vừa trườn xuống hào và đổi sang nói bằng giọng kim.
“Bà ấy có thể là một
phụ nữ tốt” Trật Lất nói “Nếu có ai ở đó để bắn bà ấy từng phút một trong suốt
cuộc đời bà ta”
“Vui thật” Bobby Lee nói.
“Câm mồm, Bobby Lee” Trật Lất nói “Đây không
phải là niềm vui thật sự trong đời”.
Bản Tiếng Việt ©:
2009 Hiếu Tân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét