James Wood
Newyorker, August 15, 2011
HIẾU TÂN dịch
Một khó khăn khác là trong những thế kỷ qua, dù người ta
có cảm thấy viên mãn hoặc hoan lạc hay không thì cũng không thể đồng hóa tôn
giáo với hứa hẹn viên mãn hay say mê. Cả Cơ đốc giáo lẫn Hồi giáo đều thách đố
khắc nghiệt bản ngã bằng cách nhấn mạnh sự thần phục, hy sinh và dâng hiến – sự
trút hết ra ngoài bản ngã, một cuộc trao đổi loại sai/dở của cái tròn đầy lấy
cái đúng của sự khiêm nhường – và đạo Phật đi tìm cách xói mòn chính cái ý
tưởng về tính tự chủ của cái ngã thống nhất. Chủ nghĩa khổ hạnh cách mạng, là
cái mà những tôn giáo nói trên là hiện thân theo những cách khác nhau, có thể nói
là nó dứt khoát tỉnh ngộ.
Dùng chủ nghĩa thế tục để lấp đầy khoảng trống mê vọng là
nguy cơ làm cho nó trong trường hợp tốt nhất thành lòng cuồng tín mộ đạo, và
trong trường hợp xấu nhất thành cái "tích cực" lạc quan ngây ngô, và
ở đây không phải khi nào cũng tránh được cái nguy cơ ấy. Tuy nhiên phần lớn
cuốn sách là một công trình có giá trị về mảnh đất trung gian, khoảng không mà
cả những người mộ đạo giáo điều và những người vô thần giáo điều đều bỏ trống.
Nó bao dung và thậm chí quan tâm đến tính đa dạng của tu tập tôn giáo và duy
trì một giọng nói vô tư và cam kết. Chúng ta có thể gọi nó là Tinh thần Thế tục
Mới. tất cả những phẩm chất này có thể tìm thấy trong tiểu luận đầu tiên của
cuốn sách của nhà triết học Columbia Philip Kitcher, người đã đặt ra nhiều
thuật ngữ của cuộc thảo luận lớn hơn. Kitchen không thích cái mà ông gọi là
những nhà vô thần theo chủ nghĩa Darwin (tức là, những nhà Vô thần Mới ), những
người rất thường "nghĩ rằng một khi đã làm một trường hợp chống lại cái
siêu nhiên, thì công việc của họ sẽ xong." Ông ngụ ý rằng triết học phải
chiến đấu và giáo dục thành kiến tôn giáo thông thường, và bằng thí dụ, ông gợi
ý rằng làm việc đó dễ có hiệu quả hơn báo chí hoặc tuyên truyền.
Chẳng hạn nhiều người tin rằng đạo đức là một sự cứu rỗi
của Chúa, và rằng không có Chúa thì không có đạo đức – trong từ ngữ thế tục gọi
là "tất cả đều được phép." Bạn có thể nghe thấy điều đó trong Fox
News, nó nằm sau cái khao khát có Mười
Điều Răn hiện lên trong các phòng xử án. Nhưng những nhà triết học như Kitcher
nhớ những gì Socrates nói với Euthyphro, người cho rằng điều thiện có thể được
định nghĩa bằng những gì các vị thần đã muốn: nếu đìều các vị thần muốn dựa
trên những tiêu chuẩn khác về cái thiện, thì ý chí thần thánh không phải là cái
làm cho một điều gì đó thành tốt; nhưng nếu điều thiện đơn giản được xác định
bởi ý chí thần thánh, thì chúng ta sẽ không có cách nào đánh giá điều xác quyết
này. Nói cách khác, nếu bạn tin rằng Chúa ban ra đạo đức – ngài lập ra nó theo
ý chí của ngài – thì bạn vẫn còn cần phải quyết định Chúa đã lấy đạo đức ấy từ
đâu. Nếu bạn ngả về câu trả lời, "À, Chúa chính là điều thiện; Người sáng tác ra nó," thì bạn có nguy cơ biến
đạo đức thành đồ chơi của Chúa, và bạn tước đi của bản thân bạn mọi khả năng
phán xét cái đạo đức ấy.
Kinh Thánh chứa đựng nhiều thí dụ về Chúa trời và Jesus
hiện ra để ban phép những điều dường như tùy hứng hay độc ác: ra lệnh cho
Abraham giết con trai của mình, sự dày vò Job (một trò chơi do Satan, kẻ dường
như rất thân cận với Chúa, xúi bẩy), việc Jesus vô tình giết hại những con lợn
Gadarene. Cựu ước dường như đã nắm được ý nghĩa của lưỡng luận Plato, khi nó
cho Abraham cầu khẩn đấng Yahweh[1]
đầy ý muốn trả thù để xin tha cho những cư dân vô tội của thành Sodom. Abraham
mặc cả với Chúa: Người có chịu tha cho thành đô này để đổi lấy năm chục mạng
người vô tội không? Bốn mươi lăm? Hay bốn mươi? Hay ba mươi? Ông khiến Yahweh
chịu giảm xuống đến mười, và gần như để làm cho Ngài xấu hổ, hay để dạy Ngài,
hay có lẽ để giữ Ngài trong sự độc lập về đạo đức đối với những bốc đồng của
chính Ngài: "Hãy để nó tránh xa khỏi Ngài!" ông quở trách Yahweh.
"Vị quan toà của toàn trái đất lại không thực thi lẽ công bằng hay
sao?"
Hay lấy vấn đề sự bất tử, mà hàng triệu người bám vào,
làm điều an ủi và đe dọa. Như Kitcher giải thích, người ta có xu hướng nghĩ
rằng cái chết "sẽ phá huỷ giá trị mà chúng ta nhằm tạo ra bằng cuộc sống
của chúng ta."Chúng ta sợ dần dần mất đi những khả năng của chúng ta khi
chúng ta già đi; cái chết non là điều đặc biệt khủng khiếp. Nhưng, ông nhẹ nhàng
chỉ ra, sự bất tử không giúp được chuyện này:
Nếu đời bạn hướng vào việc nuôi nấng những người khác cần
đến sự bảo vệ và dẫn đường của bạn, và nếu chẳng may bạn chết trước khi họ sẵn
sàng đương đầu với cuộc đời mà không có
bạn – sự kiện bạn sẽ tái sinh – và có thể tái sinh đối với họ trong một trạng
thái hoàn toàn khác – là không cần thiết. Dự định của bạn, trong đó bạn đã tập
trung cả sự sống của bạn vào, vẫn còn bị cái chết trước thời hạn làm tổn
thương.
Nhiều tín đồ tôn giáo chờ đợi để gặp những người thân yêu
trên Thiên đàng, Kitcher nhận xét, và tuy vậy sự tái hợp không thể đơn giản là
sự tiếp nối cuộc sống chung trên trái đất. Chẳng hạn, nếu một người cha mất đứa
con nhỏ, như nhà bất khả tri luận Thomas Huxley thời Victoria mất đứa con nhỏ
Noel, Thiên đường không trả lại cái mà ông mong mỏi nhất, đó là thấy đứa con
của ông tiếp tục sống trên trái đất.
"Hơn nữa, bất kỳ một cuộc tái ngộ nào cũng rõ ràng là làm cho hai
con người xa lạ đối diện với nhau, một người cha mà cuộc sống đã mở rộng theo
những hướng khác sau cái chết của Noel và một đứa trẻ không còn chiếm không
gian cảm xúc mà cái chết sớm của nó đã bỏ lại" Kitcher viết.
Tiểu luận của ông đặc trưng bởi lòng nhân đạo, và bằng
việc nó tự nguyện vay mượn từ tôn giáo. Ông sẽ không được tưởng thưởng gì từ
những người vô thần theo Darwin về chuyện này, nhưng ông tin một cách mãnh liệt
những gì tôn giáo làm tốt, nhận xét những gì nó mang lại cho cộng đồng, tình
bạn và sức mạnh trong lúc ngặt nghèo, và nó thường xuyên tạo hứng khởi cho
những con người bình thường làm nên những hành động kiệt xuất của lòng khoan
dung nhân hậu và lòng vị tha quên mình. Ông chỉ ra rằng nhiều tín đồ tôn giáo
hiện đại không dính dáng gì với loại niềm tin tầm thường phàm tục vào Chúa mà
những ngwời vô thần chiến đấu gán cho họ. Để cho tinh thần thế tục có được sự
hấp dẫn rộng rãi, ông viết, nó sẽ cần phải trở thành chủ nghĩa nhân đạo thế tục
hơn là "sự chối bỏ thô lỗ" nhưng là hòa hợp với nhu cầu con người như
tôn giáo đã là, và có trách nhiệm với bất công xã hội như những lời dạy của
Jesus hay Muhammad.
Đó không phải một thử thách tầm thường. Để lấy một thí dụ
trung tâm, nhiều tín đồ mộ đạo cho rằng cuộc sống không có Chúa sẽ là sống
không ý nghĩa. Trong khi những người thế tục yêu sự tự chủ và tự do lựa chọn
như những phẩm chất làm cho cuộc sống của họ có ý nghĩa, những người mộ đạo
thường nhấn mạnh sự xả thân quên mình và quy phục một quyền uy cao hơn. Sự cách
biệt này có thể hiện ra như một vực thẳm. Nhưng Kitcher gợi ý rằng những người
mộ đạo và những người thế tục thật ra nhất trí về việc tạo ra ý nghĩa cuộc sống
như thế nào. Ông chỉ ra rằng, nhiều tín đồ nghĩ về sự quy phục Chúa của họ
không phải là sự bắt buộc, mà trái lại như "xuất phát từ sự lựa chọn nhân
cách phục tùng." Cuộc sống hiện lên những ý nghĩa bởi vì ai đó đồng nhất
với mục đích của Chúa. Sự đồng nhất này phải nảy sinh từ một hành động đánh
giá, một quyết định rằng phục vụ một vị thần mà mục đích của ngài được coi là
tốt, là có giá trị. Vậy thì những tín đồ lựa chọn tự chủ "từ bỏ tự do ý
chí để phục vụ cái mà sự đánh giá tự chủ đã coi là tốt." Cả những người
thế tục lẫn những tín đồ đều bị thu hút vào việc làm ra những đánh giá độc lập
về điều gì là ý nghĩa cuộc sống. Họ rút ra những kết luận khác nhau về ý nghĩa
cuộc sống là gì, nhưng họ đi tìm nó bằng những cách tương tự nhau.
Một tác phẩm thông
minh sâu sắc của nhà văn và học giả thần học Bruce Robbins tấn công một cách
khác, cái ý tưởng cho rằng chủ nghĩa thế tục hàm ý tính vô nghĩa hay trong
trường hợp khá nhất, ý nghĩa hạng hai. Robbins để ít thời gian nói đến cái
"mê đắm," cái từ này dường như tâng bốc những cảm xúc hay hành động
nào đó (như sự hiển linh hay những cái thế tục thay thế nó) trong khi vứt bỏ
những cái khác. Chủ nghĩa thế tục phải tìm ra và tạo ra những giá trị của chính
nó, và những giá trị này có thể là hết sức đa dạng – chẳng hạn, "giúp con
cái làm bài tập ở nhà hay nấu những bữa ăn ngon," hay "những người
vận động bảo vệ các bác sĩ khỏi những nhà hoạt động chống-phá-thai khắc nghiệt,
hoặc những người Do Thái vận động chống những khu định cư Israel trên Bờ Tây
[sông Jordan]". Ông trách Taylor vì đã cho rằng đời sống thế tục hiện đại
"bị vây bọc trong sự khó chịu của tính vô nghĩa," từ của Weber để tả
sự khôngmêđắm, Entzauberung, thật sự có nghĩa là "sự loại trừ cái
huyền diệu" nhưng nó sai lầm ở chỗ từ việc mất tính huyền diệu suy ra mất
ý nghĩa cuộc sống. Nếu một sự khó chịu vây bọc cuộc sống hiện tại, có thể nó đã
được tạo ra không phải bởi bước đi hùng dũng của tiến bộ, mà bởi sự ngập ngừng
e ngại của tiến bộ - "bởi việc ngày nay không đạt được một trình độ công
bằng xã hội mà thế giới tiền hiện đại thậm chí đã không cố để đạt được."
Thật ra tiểu luận của Charles Taylor trong tập này mang
tựa đề "Tỉnh ngộ và Trở lại mê đắm" gợi ý những nhất trí đáng kể với
Robbins. Taylor miêu tả một vực thẳm ngăn cách một thế giới đầy những thần,
những quỉ và ma thuật với cái thế giới lấy trí tuệ làm trung tâm của chúng ta.
Trong cái thế giới hữu thần xưa cũ, người ta tin rằng ý nghĩa và giá trị vốn có
trong bản thân thế giới, bên ngoài trí óc con người: trong Thượng đế, trong vũ
trụ, và trong thế giới tự nhiên của Thượng đế, dù là những đồ vật mang ý nghĩa
(như những thánh tích tôn giáo) hay những cấu trúc của bản thân vũ trụ. Ý nghĩa
từ đó mà đến với bạn. Trong một thế giới thế tục, những ý nghĩa và giá trị được
coi là sinh ra từ trí tuệ của chúng ta và phóng chiếu vào thế giới.
Tuy nhiên đối với Taylor, cái quan niệm "lấy trí tuệ
làm trung tâm" là một sai lầm. Ông cho rằng nó không đi theo những thắng
lợi của khoa học sau Galile, mà những quy kết của chúng ta về giá trị chỉ là
tùy hứng. Chúng ta có thể tranh cãi về nó một cách hữu lý, và một số trong
những giá trị đó được coi là "những đánh giá mạnh" về một trạng thái
khách quan của sự vật. Bằng quan niệm "đánh giá mạnh" Taylor muốn nói
một phán xét mạnh mẽ và rộng lớn đến nỗi, khi một ai khác không có khả năng
chia sẻ nó, thì điều đó cho thấy về phần anh ta hay chị ta có sự hạn chế nào
đó. Khi người hàng xóm của chúng ta không đồng ý với chúng ta rằng những cảnh
giết người ở một khu trại trên hòn đảo nhỏ ở Na Uy là sai, thì chúng ta không
nhún vai mà nói "Chacun ses goûts", mỗi người có sở thích của
riêng mình. Khi Tolstoy gọi Shakespeare là nhà văn xoàng, thì đó là một sự đánh
giá nó xét đoán về chính Tolstoy, và đánh dấu tính lập dị của ông.
Những cách giải thích thế tục về thế giới (vật lý hiện
đại, thiên văn, tiến hóa) đã không làm thế giới bớt kỳ lạ ngỡ ngàng và đã không
làm xói mòn hiệu lực hoặc thẩm quyền của sự ngỡ ngàng vui thích của chúng ta.
Niềm vui thích ngắm nhìn đường bay của một con chim không bị bào mòn bởi việc
biết nhiều hơn tổ tiên chúng ta rằng con chim đã tiến hóa, mà ngược lại. Diễn
ngôn hiện đại làm Taylor bối rối tìm cách giải thích không phải thế giới mà
chính tâm trí chúng ta. Điều gì xảy ra khi, chẳng hạn, khoa thần kinh học "giải
thích" sự ngạc nhiên của chúng ta chẳng qua chỉ là sản phẩm được quy định
về mặt tiến hóa của những quá trình nào đó trong bộ não chúng ta? Phải chăng
định giá mạnh mẽ có thể bảo trợ cho những sự ngạc nhiên như vậy bị xói mòn bởi
một vật thay thế có tính cơ giới? Lòng vị tha chẳng hạn, có thể kéo theo định
giá cực mạnh: chúng ta ngưỡng mộ nó như một cái gì lớn lao hơn bản thân chúng
ta, và nhữnng người không chia sẻ sự ngưỡng mộ ấy dường như là người không xứng
đáng, hay tệ hơn. Nhưng chúng ta bị bỏ lại chỗ nào khi sinh học tiến hóa cố
gắng giảm nhẹ sự định giá mạnh của chúng ta về lòng vị tha bằng cách khẳng định
rằng, giống như mọi hành vi động vật, nó chỉ là một sự trù liệu để làm lợi cho
những gene ích kỷ của chúng ta? Theo thuật ngữ của Taylor, vấn đề là liệu một
"ngôn ngữ bậc trên" trong đó chúng ta mô tả lòng vị tha là cao quí và
đáng ngưỡng mộ, có thể hoàn toàn bị chiếm đoạt bởi "ngôn ngữ bậc
thấp" của những sự giải thích công cụ và sinh học, một ngôn ngữ tránh né
một cách cực kỳ thận trọng mớ từ vựng về mục đích, chủ định, mưu toan, cứu
cánh.
Taylor ngờ rằng nó có thể làm được điều đó, ông lo lắng
về sự cám dỗ có tính phá hoại của những sự qui giảm như thế, và không phải
không có lý do. Ngày nay người ta liên tục chạy đua chống lại một chủ nghĩa thực
dụng thần kinh học tiến hóa thô thiển mà các nhà tâm lý học tiến hóa nổi tiếng
và các nhà bình luận báo chí ưa chuộng (thuộc loại người lập luận rằng chúng ta
thích sống ở ngoại ô và bầu cho Đảng Cộng hòa bởi vì khoa thần kin học đã
"chứng minh" rằng một mẩu nào đó trong não chúng ta sáng lên khi xem
Chevy Chase[2]
hay Greenwich; hoặc rằng tất cả chúng ta đều thích những cuốn tiểu thuyết bởi
vì những câu chuyện chắc đã phải dạy chúng ta từ nhiều thiên niên kỷ trước,
cách dàn xếp cái xã hội săn bắn – hái lượm rắc rối của chúng ta như thế nào -
tôi hơi cường điệu một chút). Taylor đúng khi ông khẳng định rằng tính đại
chúng của loại qui giảm này là "một trong những vấn đề trí tuệ nóng bỏng
trong đời sống hiện đại."
Nhưng có lẽ ông quá nghiêng về thất bại. Có qui giảm tốt
và qui giảm xấu. Taylor không tấn công qui giảm xấu lần lượt từng trường hợp
một, mà hành xử như thể nói chung nó đã thắng rồi – như thể nó đang làm bại
hoại những viễn cảnh của một lối sống tinh thần và đầy ý nghĩa. Điều này hơi
giống với việc hạ thấp lý thuyết âm mưu bởi vì nó đã phá hoại một sự thật
thiêng liêng, thay vì tấn công vào lý thuyết âm mưu như một sự không-thật đơn
giản. Theo nghĩa này, tiểu luận của Taylor dường như là tự sự của mất mát và
than vãn, ngay cả khi ông phản đối rằng nó không phải như thế. Đặt vấn đề giản
hóa luận trước cửa những hình thức qui giảm đặc biệt (nhiều cánh cửa này hơi
lớn hơn những mặt tiền cửa hàng tạm thời), còn hơn là đặt nó trước cánh cửa rất
rộng của "khoa học hậu-Galileo"
Cái trước là thói hay tranh cãi của thế tục, cái sau gần với khúc bi
thương tôn giáo.
Thật ra "Niềm vui của Tinh thần thế tục" tìm
thấy con đường riêng của nó để chống lại những nỗi lo âu của Taylor. Một tiểu
luận có giá trị của Frans B. M. de Waal, một nhà nghiên cứu môn động vật linh
trưởng người Mỹ gốc Hà Lan, đưa ra một thí dụ về sự qui giảm "tốt",
một sự qui giảm được làm dịu đi nhờ sự
nhận biết những giới hạn của nó. Trong một bản miêu tả về lòng vị tha tự phát
và sự thấu cảm ở loài tinh tinh – những hành động của lòng tốt "chân
chính" mà ông và những người cộng tác nhgiên cứu của ông đã ghi lại – de
Vaal suy luận rằng đạo đức của loài người "phải xưa hơn tôn giáo và văn
minh một chút", và "thật ra có thể già hơn bản thân loài người."
Trên bề mặt của nó, câu chuyện về cội nguồn đạo đức nhân loại trong hành vi
động vật là thuộc loại "ngôn ngữ bậc thấp" của cách giải thích sự qui
giảm có thể khiến Charles Taylor rùng mình. Tuy nhiên de Vaal tách sự suy đoán
của ông khỏi chủ nghĩa công cụ di truyền học. Một khi một khuynh hướng đã được
tự nhiên đặt vào vị trí, ông viết, "không phải nhất thiết mỗi một biểu
hiện của nó đều giúp cho sự sống còn và sinh sôi nảy nở. Nó hơi giống với khao
khát tình dục: có nó để giúp cho sinh sản, nhưng không có nghĩa là con người và
con vật làm tình chỉ để sinh sản. Hành
vi đi theo sức thúc đẩy mạnh mẽ có tính tự chủ của chính nó". De Vaal cảnh
báo đúc kết thành một "những lý do tại sao hành vi tiến hóa và những lý do
tại sao vai diễn diễn nó, một sự phân biệt
đối với những nhà sinh vật cũng thiêng liêng như sự phân biệt giữa nhà
thờ và nhà nước trong xã hội hiện đại." Như ông nói, "Những lý do
tiến hóa cho hành vi vị tha không nhất thiết là lý do của con vật. Nói cách
khác, có thể giải thích đạo đức con người mà không phải thanh minh.
Và có lẽ bản thân Darwin không phải là người qui giảm vĩ
đại sao? Một tiểu luận tuyệt vời của nhà sử học và triết gia Robert J. Richards
lập luận một cách thuyết phục rằng Darwin rất chậm từ bỏ ngôn ngữ về mục đích
và mưu toan trong việc bàn về tiến hóa và chọn lọc tự nhiên. Trong khi ông đang
viết "Nguồn gốc các loài" dường như ông đã một mực tin rằng
"Những sự vật trong tự nhiên phải được hiểu như xảy ra thông qua qui luật
tự nhiên." Trong bản tháo cuốn "Nguồn gốc," ông định nghĩa giới
tự nhiên như "những qui luật mà Chúa ban ra để điều hành Vũ trụ."
Richards khẳng định rằng, đến năm tám mươi sáu tuổi, Darwin đã bắt đầu dao động
trong niềm tin của ông rằng qui luật tự nhiên đòi hỏi một sự trù liệu trí tuệ
độc lập để cấp cho nó sức mạnh"; vào cuối thập kỷ đó ông đã rút mọi sự
nương tựa vào niềm tin Chúa trời. Và tuy vậy, Charles kết luận, "điều mà
dường như ông không bao giờ từ bỏ là việc qui cho bản thân chọn lọc tự nhiên
những thuộc tính phân biệt, quyền lực và quan tâm đạo đức được tác dụng siêu
nhiên trao trước cho nó. Những thuộc tính này cho phép luật chọn lọc tự nhiên
dẫn đến mục đích mà Darwin đã tiên đoán như mục đích của quá trình tiến
hóa...tức là, sự sáng tạo tự nhiên con người như một tạo vật đạo đức."
Những tiểu luận giống như tiểu luận này, của Adam
Phillips (về tình trạng bơ vơ không nơi nương tựa) và Rebecca Stott (sự ngạc
nhiên thú vị của Darwin) được viết cho một tuyển tập đầy mầu sắc, trong đó
những người đóng góp theo đuổi một cách thích thú những mối quan tâm riêng của
mình, và thường là trong trạng thái thế tục nhất của họ khi họ không cố gắng
hết sức để làm ra thế tục. Cuốn sách tỏa ra bên ngoài từ chủ đề biên tập của nó
như một đô thị cổ xưa lý tưởng có thể tỏa rộng ra bên ngoài – từ một trung tâm
thanh thản và không bị cảnh sát theo dõi.
Đôi khi người ta
cảm thấy trung tâm này có vẻ hơi quá thanh bình. Việc nhấn mạnh "niềm
vui" và "cảm xúc tràn đầy" chắc hẳn đòi tinh thần thế tục cung
cấp cái mà Bruce Robbins gọi là một câu chuyện cải tiến – để mang những tin tốt
về sự an ủi của tinh thần thế tục. Tuy nhiên những vấn đề siêu hình học dày vò
của Lily Briscoe, (hay của Terrence Malick, hay của nhà triết học bạn tôi) vẫn
còn đó, và không thể được trả lời bằng tinh thần thế tục một cách hiệu quả hơn
bằng tôn giáo chút nào. Có những ngày những dòng của Philip Larkin về cuộc sống
"ban đầu là buồn chán, sau là sợ hãi" dường như chính xác một cách
khó chịu, và trong những ngày đó tôi có thể thích quay về một lý thuyết thần
học Cơ đốc buồn thảm như của Donald M. MacKinnon hơn là vào quyển sách này, trong
đó cái nhìn bi thảm hay phi lí không được dung dưỡng nhiều. Cách đây ba mươi
năm, Thomas Nagel viết một tiểu luận nhan đề "Cái Phi lí" trong đó
ông lập luận rằng: đúng như chúng ta có thể rút lui khỏi những mục đích của đời
sống cá nhân và nghi ngờ giá trị của chúng, chúng ta cũng có thể rút lui khỏi
tiến bộ của lịch sử loài người, và vinh quang của Chúa, và đặt tất cả những thứ
đó thành câu hỏi theo cùng cách đó." Tinh thần thế tục dường như cũng có
thể vô nghĩa như tôn giáo khi nỗi nghi ngờ như vậy tấn công. Naval đã đi tới
kết luận một cách bình thản, rằng chúng ta không nên lo lắng quá nhiều, bởi vì
nếu chúng ta lo lắng, dưới con mắt của vĩnh cửu không có gì là quan trọng cả
"thì điều [lo lắng] đó cũng không quan trọng, và chúng ta có thể tiếp cận
đời sống phi lí của chúng ta với thái độ mỉa mai thay vì chủ nghĩa anh hùng hay
tuyệt vọng." Điều này hoàn hảo về mặt logic, và đưa ra một cách ranh ma
một loại giải trừ cấu trúc có tính thế tục về tinh thần thế tục, nhưng nó là
niềm an ủi khá lạnh lẽo giữa đêm khuya.
[1] Yahweh
(hay Jéhovah) tên Chúa trong Cựu ước
[2] Cornelius
Crane "Chevy" Chase , sinh 1943, nhà hài kịch, nhà
văn, diến viên điện ảnh và truyền hình Mỹ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét