Philip
Roth:
'Không còn cảm thấy việc tôi phải chết là cái gì bất công ghê gớm lắm'
Martin Krasnik
The Guardian,
14/12/2005
Hiếu Tân dịch . 2011
Philip
Roth: 'Tôi không mỉm cười'.
Philip Roth hiếm khi trả lời
phỏng vấn, và tôi nhanh chóng tìm ra tại sao. Không phải là ông khó chịu hay
thô lỗ, ông chỉ không muốn phát chán với những câu trả lời cho cùng những câu
hỏi lặp đi lặp lại hoài. “Anh định nói về chuyện gì?” Roth hỏi, và ông ngồi
xuống. Tôi đã cảm thấy ngay đây là một công việc khó nhằn. Vào tháng Chín, New
York Times phỏng vấn ông về việc tác phẩm của ông được The Library of America
(Thư viện Hoa Kỳ) xuất bản. Chỉ có hai tác giả khác (Eudora Welty và Saul
Bellow) đã đạt được vinh dự ấy lúc còn sống. Nhưng thực tế Roth đã không nói gì
với người phóng viên của Times càng lúc càng thất vọng.
Phóng viên nhiếp ảnh của tôi tên
là Flash Rosenberg và cô đã thật sự cố gắng giúp tôi. Cô nói cô vừa từ Berlin
trở về, ở đó người ta gọi cô là Blitz (tiếng Đức có nghĩa flash – đèn nháy). Roth không cười. Ông chăm chú nhìn cô bằng cái
nhìn trống rỗng trong lúc cô nhảy quanh để chụp ảnh. Cô chụp một bức ảnh lấy
ngay cho ông và nhét nó vào trong một trong những quả cầu tuyết kỷ niệm ấy.
Roth quay nó lộn đầu xuống. và tuyết rơi lả tả trên đầu ông.
“Trông như đầu tôi bị gầu kinh
khủng vậy” ông nói chậm rãi bằng giọng trầm. “Cái anh chàng tội nghiệp này thật
sự cần một loại dầu gội đầu trị gầu mạnh nhất.”
“Tôi luôn luôn dùng mẹo này để
làm người ta mỉm cười,” Flash nói.
“Tôi không mỉm cười.”
Một quãng lặng dài, đau khổ.
“Tại sao ông không mỉm cười?”
Tôi hỏi.
“Có lần một nhà nhiếp ảnh từ
New York đến “Cười lên nào” cô ta luôn nói thế “Cười!” Tôi không thể chịu nổi
cô ta, hay toàn bộ cái hiện tượng ấy. Tại sao lại mỉm cười vào ống kính máy
ảnh? Nó không có ý nghĩa gì của con người cả. Bởi vậy tôi đã tống khứ cả cô ta
lẫn nụ cười.”
“Ông có mỉm cười bao giờ
không?”
Ông nhìn tôi. “Có chứ. Khi tôi
nấp vào một góc và không ai có thể nhìn thấy.”
Chúng tôi đang ngồi trong một
căn phòng phía sau văn phòng đại diện văn học của Roth ở trung tâm New York.
Căn phòng này đầy sách của Salman Rushdie. “Có lẽ đặt phòng của Rushdie ở phía
sau là khôn ngoan nhất.” Roth nói mà không mỉm cười. Ông đã đi từ ngôi nhà nông
thôn của ông ở Connecticut để đến trả lời một cuộc phỏng vấn về cuốn sách được
xuất bản ở Mỹ và Anh nhưng nó cũng vừa được xuất bản tại đất nước tôi, Đan
Mạch. Cuốn sách tưởng tượng Charles Lindbergh, vua của các bầu trời, đã thắng
trong cuộc bầu cử tổng thống 1940 và thành lập một liên minh với Hitler.
“Tôi có ý tưởng này khi tôi đọc
một tiểu sử tự thuật của một nhà sử học Mỹ. Trong một chú thich ông nêu rằng
cánh hữu của Đảng Cộng Hòa đã lập một âm mưu để bổ nhiệm Linbergh năm 1940. Tôi
không biết điều ấy. Tôi nhớ rằng gia đình tôi ủng hộ Roosevelt, và mọi người
xung quanh tôi đều ghét Linbergh. Toàn bộ những người hàng xóm đều là Do Thái,
và mọi người lo lắng về thái độ cực kỳ căm ghét của ông ta đối với người Do Thái.”
Những người Do Thái xuất hiện
khắp nơi trong các sách của Roth, nhưng quyển này dường như là cuốn lịch sử Do
Thái lớn nhất của ông. “Do Thái ư? Đó là cuốn sách Mỹ nhất của tôi. Nó viết về Mỹ. Về Mỹ. Nó là một phản-khôngtưởng
(dystopia) Mỹ. Anh có bao giờ nên nói với Ralph Ellison rằng Người Vô hình của ông là cuốn sách Da
đen nhất, anh có thể nói thế không?” Ông nhìn tôi “anh có nói không?”
“Có lẽ không.”
“Những loại xét đoán như thế là
kiểu sáo mòn của báo chí. Văn học Do Thái. Văn học Da đen. Mọi người mở một
cuốn sách ra và lao vào đọc nội dung bên trong mà không chú ý đến những cái
nhãn hiệu này.”
“Nhưng ông được xem là nhà văn
Mỹ gốc Do Thái. Điều đó không có ý nghĩa gì với ông sao?
“Đấy không phải là vấn đề mà
tôi quan tâm. Tôi biết chính xác là người Do Thái có ý nghĩa gì, và nó thật sự
không có gì đáng chú ý. Tôi là một người Mỹ. Anh không thể nói về chuyện đó mà
không đi thẳng vào những khuôn sáo ghê gớm không nói lên điều gì về con người:
Mỹ là trước hết và trên hết...nó là tiếng nói của tôi. Và những nhãn hiệu nhận
dạng không liên quan gì đến việc người ta thật sự trải nghiệm cuộc sống như thế
nào.
Bây giờ tôi cũng nói nhỏ nhẹ
như ông. Thì thầm, tôi nói rằng bản thân ông, trong các quyển sách của ông ông
đã viết về căn cước. Trong cuốn Chiến
dịch Shylock là nói về một người Do Thái là ai. Trong Âm mưu chống Mỹ là nói về một người Mỹ là ai.
"Nhưng tôi không chấp nhận
rằng tôi viết tiểu thuyết Mỹ - Do Thái. Tôi không chuốc lấy cái điều vô nghĩa
về văn học da đen hay văn học nữ quyền. Đó là những nhãn hiệu được làm ra để
củng cố một số chủ trương chính trị."
Tôi lấy hết can đảm để hỏi một
câu tiếp theo: về Roth – và Roth. Ông xuất hiện trong nhiều quyển sách của ông
như một chàng trai và một tác giả trưởng thành. Và khi đó ông có một bản ngã
thế thân, tác giả Nathan Zuckerman. Như vậy chỗ nào là con người thực Philip
Roth kết thúc, chỗ nào là [hư cấu] văn chương bắt đầu? Con người thực Philip
Roth nóng nảy nhìn tôi, như thể tôi là một tay ngu ngốc.
“Tôi không hiểu câu hỏi đó,”
ông nói. Tôi không đọc sách hay nhận thức về sách theo cách ấy. Tôi quan tâm
đến đối tượng, sự.. sự vật, câu chuyện, những xúc cảm thẩm mỹ bật ra từ bên
trong ..sự vật ấy. Tôi là Roth hay Zuckerman? Tất cả là tôi. Anh biết không? Đó
là điều mà tôi nói một cách bình thường. Tất cả cái đó là tôi. Không có gì là
tôi.”
Thế rồi băng tan. Tôi có mang
đến cuộc phỏng vấn này mấy tập Con vật
hấp hối và Vết nhơ của con người
– hai cuốn sách về mối quan hệ giữa một người đàn ông lớn tuổi với một phụ nữ
trẻ tuổi. Tại sao chuyện ấy lại làm ông quan tâm? “Bởi vì nó tồn tại,” ông nói.
Tôi kể với ông về một vụ xìcăngđan lớn ở Đan Mạch trong đó một tác giả 68 tuổi
bị mất tất cả danh dự. Tội của ông ta: ông viết công khai về một mối quan hệ
tình dục với một cô gái da đen 18 tuổi ở Haiti – con gái của người hầu của ông.
Trừng phạt: Đóng đinh trên thập giá trước công chúng, đó là điều thật sự kinh
tởm, ngay cả ở nước Đan Mạch tiến bộ. Roth muốn biết tất cả về câu chuyện ấy,
mọi chi tiết nhỏ nhặt. Sau đó ông nói: “Tác giả cần cái đó. Ông ta có viết về
việc ông ta làm tình với cô gái trong buồng ngủ ông chủ của ông ta không. Có,
thế thì hay. Nó trở thành chính trị. Nếu nó là chuyện lăng nhăng với một cô
sinh viên 25 tuổi ở trường Đại học ở Port-au-Prince thì có lẽ nó chẳng thành
chuyện lớn.”
Tôi bảo ông rằng phỏng vấn ông
là cực kỳ khó khăn – giống như không mặc quần áo gì cả mà leo lên một núi băng.
“Ờ, tôi không phải sinh ra để
làm cho cuộc sống của bạn dễ dàng hơn. Ha!” Cái cười của ông giống như một lời
tuyên cáo – không phải là mỉm cười, mà chỉ “Ha!”
“Lẽ ra chúng ta không nên nói
gì về văn chương thì hơn.” Tôi nói.
“Ha, ha,” ông nói. “Bây giờ anh
đang nói đấy! Tôi sẽ thấy tuyệt vời với 100 năm hoãn nợ không phải nói về văn
chương, nếu anh đóng cửa các khoa văn, đóng các mục điểm sách, cấm các nhà phê
bình. Các độc giả sẽ được để yên với những quyển sách, và nếu có ai dám nói về
chúng, họ sẽ bị bắn hay bị tống vô tù tức khắc. Vâng, bắn. 100 năm hoãn nợ khỏi
phải nói những câu chuyện văn chương không thể nào chịu nổi. Tất cả những gì
khác với cuộc nói chuyện này. Nói những câu chuyện thần tiên. Ngay khi anh vừa
tổng quát hóa, anh rơi vào một vũ trụ hoàn toàn khác vũ trụ văn chương, và
không có chiếc cầu nào nối hai vũ trụ đó."
Roth đi ra ngoài và đem vào một
tấm bìa đen – bìa quyển sách mới của ông. Nó đen kịt với một đường kẻ đỏ đóng
khung cái tựa đề thường dân.
"Anh nghĩ gì về nó? Hôm nay nó đang được duyệt," ông nói. "Trông
nó như thể nói về cái chết," tôi nói. "Vâng, anh bảo là cái chết, anh
đáng đồng tiền bát gạo đấy. Thường dân là tên một dòng kịch của Anh từ thế kỷ
15, những vở kịch ngụ ngôn, loại kịch luân lý. Chúng được diễn ở các nghĩa địa,
và chủ đề luôn luôn là sự cứu rỗi. Tác phẩm kinh điển có tên là Thường dân từ
năm 1485, do một tác giả khuyết danh viết ra. Nó ở vào khoảng giữa ngày chết
của Chaucer và ngày sinh của Shakespeare. Luân lý của vở kịch luôn là "hãy
làm việc cho sỉêng năng chăm chỉ để được lên thiên đường", "hãy làm
con chiên ngoan đạo nếu không thì xuống địa ngục." Người thường dân là
nhân vật chính và anh ta được thần Chết đến thăm. Anh ta nghĩ đó là một loại sứ
giả, nhưng thần Chết nói "Ta là Thần Chết," và câu trả lời của Thường
dân là câu tuyệt tác trong kịch nghệ Anh. "Ôi, thần Chết, ngài đến đúng
vào lúc mà tôi ít nghĩ đến ngài nhất." Khi tôi ít nghĩ đến ngài nhất. Cuốn
sách mới của tôi nói về cái chết và về việc chết. Nào, anh nghĩ sao nào?"
"Đen quá" tôi nói, và
tôi hỏi ông liệu nhà xuất bản có sợ rằng người ta không muốn mua nó vì cái màu
của nó không. "Tôi không quan tâm. Tôi chỉ muốn nó theo đúng ý của
tôi," ông nói.
Tôi nói với ông rằng trông nó
giống một quyển Kinh Thánh. "Ha! Tuyệt. Hay. Tôi tưởng nó trông giống một
bia mộ." Ông đợi tôi hỏi tiếp.
"Ông có sợ chết
không?"
Ông suy nghĩ hồi lâu trước khi
trả lời. Có lẽ ông nghĩ đến một chuyện gì khác. "Có. Tôi sợ. Nó thật khủng
khiếp." Ông nói thêm. "Tôi còn có thể nói gì khác được? Đến vỡ tim.
Không thể nghĩ gì được. Không thể tin được. Kinh khủng lắm."
"Ông có nghĩ nhiều đến cái
chết không?"
"Tôi buộc phải suy nghĩ về
nó trong suốt thời gian tôi viết quyển sách này. Tôi ngồi hai ngày ròng rã
trong một nghĩa địa để xem người ta đào huyệt. Trong nhiều năm tôi đã quyết
định không bao giờ nghĩ đến cái chết. Tất nhiên, tôi đã thấy nhiều người chết,
cha mẹ tôi, nhưng chỉ đến khi một người bạn thân nhất của tôi chết hồi tháng Tư
tôi mới nghiệm được nó hoàn toàn có tính tàn phá. Anh ấy là một người cùng
thời. Trong bản giao kèo mà tôi ký không có nói thế, tôi chưa thấy trang ấy
trong hợp đồng, anh hiểu không. Như Henry James nói trên giường hấp hối:
"À, cái việc lớn ấy, nó đã đến rồi đây."
"Ông có thỏa mãn với cuộc
đời ông không?" Tôi hỏi.
"Tám năm trước tôi có dự
một lễ truy điệu một tác giả," ông nói. "Một con người phi thường,
đầy sức sống, hài hước, lạ kỳ. Ông ấy làm việc cho một tờ tạp chí ở New York
này. Ông ấy có nhiều bạn gái, bồ bịch. Và tại lễ truy điệu có đầy đủ những
người phụ nữ ấy. Mọi lứa tuổi. Tất cả đều khóc và ra khỏi phòng, vì họ không
chịu đựng nổi. Đó là dấu hiệu của lòng tôn kính lớn nhất..."
"Những người phụ nữ sẽ làm
gì trong lễ tang của ông?"
"Nếu như họ thậm chí có
xuất hiện... họ có lẽ sẽ kêu gào bên quan tài." Ông nhìn qua cửa sổ, sang
những tòa nhà trên phố. "Anh biết không, đam mê không thay đổi theo tuổi,
nhưng con người anh thay đổi – anh trở nên già hơn. Sự ham muốn đàn bà trở nên
gay gắt hơn. Và trong cảm hứng dục tình có một sức mạnh mà trước đó chưa hề có.
Cảm hứng về thân thể người đàn bà trở nên da diết hơn. Đam mê tình dục bao giờ
cũng sâu sắc, nhưng nó trở nên sâu hơn."
"Ông nói rằng ông sợ chết.
Năm nay[1]
ông 72 tuổi rồi. Vậy ông sợ cái gì?"
Ông nhìn tôi. "Bị lãng
quên. Về sự không sống, hoàn toàn đơn giản, về việc không cảm thấy sự sống,
không ngửi thấy nó. Nhưng cái khác giữa hôm nay và nỗi sợ chết khi tôi 12 tuổi,
là bây giờ tôi có một kiểu từ nhiệm đối với thực tại. Nó không còn có vẻ là
việc tôi phải chết là một cái gì bất công ghê gớm lắm."
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét