LAWRENCE H. SUMMERS
20/1/ 2012
http://www.nytimes.com/2012/01/22/education/edlife/the-21st-century-education.html?_r=1&src=me&ref=general
HIẾU TÂN dịch
Lawrence
H. Summers là cựu chủ tịch Đại học Harvard và cựu Bộ trưởng Tài chính Hoa Kỳ.
Tiểu luận này dựa trên bài diễn văn của ông cho hội nghị Trường học cho Ngày
mai của The New York Times.
Một NGHỊCH LÝ của giáo dục đại học Hoa Kỳ là như thế này:
các trường đại học chủ đạo chỉ mong xác định rõ các trường trung học dạy cái
gì, và chủ yếu xác định một mẫu mực về một người đàn ông hay đàn bà có giáo dục
là như thế nào. Các trường đại học được coi như nguồn sản ra tư duy tân tiến
nhất và với nguồn ý tưởng mới, như cạnh sắc của xã hội.
Mà thế giới thì thay đổi nhanh chóng. Hãy nghĩ về mạng xã
hội, về hôn nhân đồng tính, tế bào gốc hoặc sự trỗi dậy của Trung Hoa. Hầu hết
các công ty ngày nay trông không còn giống gì với bản thân chúng cách đây 50
năm. Hãy nghĩ về các tập đoàn như General Motors, AT&T hoặc Goldman Sachs.
Nhưng giáo dục đại học theo thời gian thay đổi ít một
cách lạ lùng. Vị chủ tịch Harvard tiền nhiệm của tôi, Derek Bok, đã nói một câu
nổi tiếng so sánh khó khăn trong cải cách chương trình giảng dạy với khó khăn
trong việc di dời một nghĩa địa. Chỉ trừ một vài ngoại lệ, đúng như hồi giữa
thế kỷ 20, sinh viên học mỗi học kỳ bốn giáo trình, ba hay bốn tuần một cuộc
họp, thường với một giáo viên đứng trước lớp. Việc đánh giá sinh viên dựa trên
các bài thi khóa luận viết tay trong các cuốn vở màu xanh và một luận văn
nghiên cứu tương đối ngắn. Các giảng viên được bố trí vào các khoa, phần lớn
các khoa ấy giữ nguyên tên gọi từ khi thế hệ ông bà của các sinh viên hiện nay
đang còn là sinh viên. Phần lớn sinh viên theo học một hoặc hai môn chuyên môn
tập trung trong một khoa nhất định.
Có thể tính ì ấy
là thích đáng. Một phần chức năng của các trường đại học là giữ cho sống động
những khả năng sáng tạo lớn nhất của con người, chuyển chúng từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Chắc chắn bất kỳ người nào chủ trương cải cách đều nhớ rằng trong
giáo dục đại học Hoa Kỳ vẫn là một tấm gương cho thế giới, và rằng các trường
đại học Hoa Kỳ cạnh tranh để thu hút sinh viên nước ngoài thành công hơn hơn
hết mọi ngành công nghiệp khác cạnh tranh giành khách hàng nước ngoài của họ.
Tuy nhiên, suy
luận thế này cũng là thú vị: Giả sử hệ thống giáo dục được biến đổi mạnh mẽ để
phản ánh cấu trúc của xã hội và việc chúng ta hiểu cách học của mọi người hiện
nay. Những điều mà các trường đại học giảng dạy sẽ khác như thế nào? Sau đây là
một số dự đoán và hy vọng.
1. Giáo dục sẽ nặng về xử lý và sử dụng thông tin và nhẹ
về truyền đạt nó. Đây là một kết quả của cả sự gia tăng mạnh mẽ lượng kiến thức
- và việc một sinh viên bất kỳ có thể thật sự hấp thụ nó được bao nhiêu - và thay
đổi trong công nghệ. Trước khi có báo chí in, các học giả có thể đã phải học
thuộc lòng "Những câu chuyện
Canterbury" để tiếp tục đi sâu vào phân tích nó. Điều ấy với chúng ta
hôm nay nghe hơi có vẻ vớ vẩn. Nhưng trong một thế giới mà toàn bộ Thư viện Quốc
hội có thể được truy cập trên điện thoại di động với những qui trình tìm kiếm
tốt hơn nhiều so với bất kỳ một danh mục liệt kê của thư viện nào (card
catalog) nào thì việc tinh thông những sự kiện sẽ trở nên ngày càng ít quan
trọng hơn.
2. Hậu quả không tránh khỏi của sự bùng nổ kiến thức là
những nhiệm vụ như thế sẽ được thực hiện với sự hợp tác lớn hơn nhiều. Đây là
một ví dụ: phần luận văn kinh tế có đồng tác giả đã tăng hơn hai lần trong ba
mươi năm tôi là một nhà kinh tế. Điều có ý nghĩa hơn nữa là, trong số những
công việc mà người lao động, các doanh nghiệp và các chính phủ làm, phần có sự
cộng tác chiếm một tỉ trọng lớn. Thế nhưng, ở mọi trình độ trong hệ thống giáo
dục, phần lớn nhất và quan trọng nhất của công việc mà người sinh viên làm là làm-một-mình.
Thật ra, cộng tác với người khác một cách quá mức thì cũng gần như là lừa đảo.
Đối với phần lớn
người ta, trường học là thời gian cuối cùng họ được đánh giá về mặt cố gắng cá
nhân. Một ngân hàng đầu tư lớn có một qui trình thuê người trong đó ứng viên
phải qua phỏng vấn với 60 thành viên kỳ cựu của hãng trước khi được nhận việc.
Họ cần tìm phẩm tính nào là quan trọng nhất? Không phải là số điểm GMAT hay bản
thành tích học tập, mà là khả năng làm việc với người khác. Vì hợp tác được đặt
ở một giá trị cao hơn, chắc chắn nó nên được thực hành nhiều hơn trong các
trường học của nước ta.
3. Các công nghệ
mới sẽ thay đổi sâu sắc cách truyền đạt kiến thức. Các phương tiện đọc
bằng điện tử cho phép thường xuyên tra cứu các giáo trình, và phối hợp với các
tác dụng nghe nhìn. Hãy nghĩ về một bài giảng âm nhạc trong đó bạn có thể nghe
các bản nhạc trong khi bạn đọc, hay một bài giảng lịch sử trong đó bạn có thể
xem những đoạn phim về những nội dung bạn đang đọc. Nhưng có những thay đổi sâu
sắc hơn đang được chuẩn bị. Có một thời các giáo sư phải chuẩn bị tài liệu cho
các sinh viên của mình. Như vậy rõ ràng sẽ là một hệ thống tốt hơn nếu các giáo
trình được viết bởi một số ít những người giỏi nhất: các thành viên trong khoa
sẽ được rảnh rang hơn và các tài liệu sẽ tốt hơn, khi cuộc cạnh tranh đẩy mạnh
chất lượng của giáo trình.
Tương tự, việc các sinh viên xem video của thày giáo toán
thông minh nhất hoặc nhà phân tích rõ ràng nhất về Chiến tranh Cách mạng quan
trọng hơn là có hàng ngàn cố gắng riêng
lẻ. Các giáo sư sẽ có nhiều thời gian hơn để thảo luận trực tiếp với sinh viên
- chưa kể đến việc tiết kiệm chi phí -
và tài liệu sẽ được trình bày tốt hơn. Trong cuộc điều tra năm 2008 các
sinh viện năm thứ nhất và thứ hai Y khoa đại học Harvard, những ai sử dụng
video tăng tốc bài giảng cho biết họ tập trung hơn và học các tài liệu nhanh
hơn khi tập trung nghe giảng.
4. Như nhà khoa
học được giải Nobel Daniel Kahneman đã diễn đạt một cách trong sáng trong
"Tư duy, Nhanh và Chậm",
ngày nay chúng ta hiểu quá trình tư duy của con người tốt hơn trước đây nhiều.
Chúng ta không phải là những máy tính có lý trí, mà là tập hợp những mô đun, mỗi cái được chương trình hóa để
giải quyết thành thục một loạt nhiệm vụ nhất định. Không phải ai cũng học một
cách hiệu quả nhất theo cùng một cách. Thế nhưng mọi chứng cớ đều cho thấy,
chúng ta hầu như đã dựa hoàn toàn vào cách học thụ động. Sinh viên nghe giảng,
rồi đọc và sau đó được đánh giá trên cơ sở chứng minh khả năng nắm vững nội
dung của mình. Họ không được yêu cầu sử dụng một cách tích cực kiến thức mà họ
đang lĩnh hội được.
"Các lớp học tích cực" - trong đó sinh viên tụ
tập quanh những cái bàn, đồ đạc có thể được bố trí lại và phối hợp với công
nghệ - giúp các giáo sư tương tác với sinh viên thông qua sử dụng các phương tiện
truyền thông và các kinh nghiệm hợp tác. Hơn nữa, với khả năng của công nghệ
thông tin hiện đại, còn có thể làm nhiều thứ nữa để khích lệ cách học năng
động.
5. Thế giới ngày nay đang mở hơn, những sự kiện bên ngoài
tác động đến đời sống của người Mỹ nhiều hơn bao giờ hết. Điều này khiến cho
kinh nghiệm giáo dục nuôi dưỡng chủ nghĩa thế giới, tức là sinh viên có kinh
nghiệm quốc tế và các lớp khoa học xã hội nhờ vào những thí dụ lấy từ khắp nơi
trên thế giới, trở nên hết sức quan trọng. Việc trông chờ sinh viên học tập
ngôn ngữ nhiều hơn, tưởng cũng là hợp lý. Không biết có phải thế không?
Tiếng Anh nổi lên
như một ngôn ngữ toàn cầu, cùng với sự tiến bộ nhanh chóng của các máy phiên
dịch và sự vụn mảnh của các thứ tiếng được nói trên khắp thế giới, khiến cho
việc đầu tư cơ bản vào học một thứ tiếng
nước ngoài dường như không cần thiết. Trong khi không thể phủ nhận những sự
thông sáng nhờ nắm vững được một ngôn ngữ, thì với thời gian, việc này ngày
càng ít quan trọng hơn trong kinh doanh ở châu Á, trị bệnh ở châu Phi và giúp
giải quyết các xung đột ở Trung Đông.
6. Các khóa học sẽ nhấn mạnh nhiều hơn đến phân tích dữ
liệu. Tướng George Marshall đã nói một
câu nổi tiếng trong lễ trao bằng ở đại học Princeton rằng không thể nghĩ một
cách nghiêm túc về tương lai của châu Âu sau chiến tranh mà không cần tập trung
nhiều vào những luận điểm của Thucydies về Chiến tranh Peloponesia. Tất nhiên,
chúng ta sẽ luôn luôn học được những bài học từ lịch sử. Nhưng khả năng phân
tích vượt trên những suy nghĩ đơn giản đã tăng lên rất nhiều (hãy xem việc
tướng David Petraeus dựa vao khoa học xã hội để chuẩn bị cẩm nang chống bạo
loạn cho quân đội).
Như câu chuyện "Quả bóng tiền" thể hiện một
cách thích đáng trong thế giới của bóng chày, việc phân tích dữ liệu theo kiểu
Marshall để thử các giả thuyết và tìm đường đi đến thành công đang làm chuyển
biến hầu như mọi khía cạnh trong cuộc sống của con người. Không thể nào phán
đoán về cách chăm sóc sức khỏe của người ta mà không có một số hiểu biết về sác
xuất, và chắc chắn cuộc khủng hoảng tài chính cho ta thấy rõ hậu quả của việc
không đánh giá đúng sự kiện "những con thiên nga đen" và ý nghĩa của
chúng. Xưa kia, khi con người còn phải lo lắng với công việc đo đất, thì việc
đòi hỏi hầu hết sinh viên khi vào một trường đại học hàng đầu phải biết chút gì
đó về lượng giác là có ý nghĩa. Ngày nay, một nền tảng cơ bản về sác xuất thống
kê và phân tích quyết định có ý nghĩa lớn hơn nhiều.
Có một qui tắc ngắn gọn cho nhiều sự việc trên đời là:
khi bạn nghĩ một sự vật sẽ xảy ra thì bạn thấy nó lâu đến thế, nhưng khi nó xảy
ra thì bạn thấy nó nhanh hơn là bạn nghĩ. Bạn hãy nghĩ, chẳng hạn, đến việc sử
dụng e-book đang lan tràn, hoặc về nhà để nghĩ những vấn đề nợ của các nước
công nghiệp phát triển. Đây là một dự đoán và một hy vọng rằng phần tư thế kỷ
tiếp theo sẽ thấy nhiều thay đổi trong giáo dục đại học hơn ba phần tư thế kỷ
đã qua cộng lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét