Truyện ngắn
VASILY SHUKSIN
Hiếu Tân dịch
Shukshin,
Vasily Makarovich. (1929-1974) Diến viên, đạo diễn
điện ảnh, nhà văn Liên xô,
Tam, Vdali ("Ngoài
xa", 1968),
Zemlyaki ("Đồng
hương", 1970),
Kharaktery ("Những
tính cách", 1973),
Besedy Pri Yasnoi Lune ("Trò chuyện dưới trăng", 1974).
Kịch:
Energichniye Liudi ("Nhân dân kiên cường"), 1974.
Ở tuổi 68, lão Glukhôp góa vợ. Trong đám tang, lão khóc nức
nở: “Từ nay tôi biết sống sao đây. Cô quạnh quá.”
Phải, lão đã nói thế, như bất kỳ ông già nào khác trong hoàn
cảnh ấy. Lão buồn khổ, đau xót, đã hẳn, nhưng không nghĩ lão sẽ tiếp tục sống
như thế nào. Ông lão chỉ cảm thấy thật đau đớn, bất hạnh, thế thôi, mà không
nghĩ gì hơn nữa.
Thời
gian cứ trôi, lại một năm nữa qua, ông già bắt đầu cảm thấy cô đơn không chịu nổi.
Không phải chỉ vì ông cảm thấy khổ. Ông có thể sống khổ, nhưng cái chính là nỗi
cô đơn trong căn nhà trống trải lạnh lẽo. Ông lão có thằng con trai, con út,
(các anh nó đã chết cả trong chiến tranh) sống trên thành phố. Thằng con họa hoằn
về thăm bố, nhưng chỉ cốt để vơ vét ít khoai tây cải bắp thịt hun khói và mật
ong của nhà, mang về cho lũ con của nó. Mỗi lần nó về ông lão thấy bực hơn là
vui. Nào lão có tiếc gì khoai tây bắp cải với mật ong. Đau nhất là thằng con
lão nào có ra hồn con, mà chỉ như cái đồ ăn bám. Lão ấn cho nó thịt muối, cải bắp,
mật ong, toàn chọn thứ tốt nhất, nhưng không thèm nói một lời, chôn chặt trong
lòng nỗi oán ghét mà lão không thể nào xua đuổi đi được. Giả dụ có nói với thằng
con về nỗi cô đơn của lão, về chứng đau thắt nơi ngực lão, thì thử hỏi thằng con
làm được cái gì? Hay cũng chỉ ngồi lại với lão cho qua buổi tối, cùng uống vài
cốc rượu, rồi nó lại vác cái bao đầy rau thịt, tếch về thành phố với vợ con của
nó. Đời thế đấy.
Bởi vậy lão già quyết định tái hôn. Mà thật ra lão cũng đã
chấm cho mình một đám rồi.
Đấy
là vào ngày 9 tháng Năm, Ngày Chiến Thắng. Như thường lệ vào ngày này dân làng
tụ tập ngoài nghĩa trang làng để tưởng niệm những người đã chết trong chiến
tranh. Một cán bộ Xô viết làng đứng trên ghế đọc một danh sách dài:
“Gơrepsôp
Nicôlai Mitrôfanôvich, Guliaep Ilya Vatxiliêvich, Glukhôp Vatxili Êmêlianôvich,
Glukhôp Stêpan Êmêlianôvich, Glukhôp Paven Êmêlianôvich…”
Ba
cái tên ấy là con lão Êmêlian Glukhôp. Lần nào nghe đọc đến những tên ấy, ông
già cũng cảm thấy có những ngón tay độc ác bóp chẹt cổ họng lão, làm lão nghẹt
thở. Ông đứng nhìn trân trân xuống đất, không khóc, không nhìn thấy gì. Ông cứ
đứng như thế trong khi người cán bộ xã đọc hết tên này đến tên khác.
Trong
nghĩa trang mọi người khóc lặng lẽ. Úp mặt vào bàn tay, vùi vào chéo khăn, cố
nén tiếng nấc như sợ làm kinh động cái yên lặng thiêng liêng. Khi ông già đã thấy
dễ thở hơn, lão nhìn quanh, bao giờ cũng một ý nghĩ “Biết bao nhiêu là sinh mạng…”
Và lần
này ông nhìn thấy trong đám đông một người đàn bà tên là Ôtavina. Bà ấy không
phải người gốc làng này, nhưng đã sinh sống ở đây lâu lắm rồi. Glukhôp biết bà
ta. Trong gia đình bà không ai có tên trong danh sách, nhưng bà đứng khóc lặng
lẽ như mọi người, và làm dấu. Glukhôp tôn trọng dân công giáo vì họ bị phân biệt
đối xử, bị chế nhạo, vì sự lương thiện, sự nhẫn nại của họ. Ông lão nhìn bà
Ôtavina kỹ hơn. Đó là một bà già mũi khoằm, vẫn còn khá mạnh khỏe, còn làm được
những việc như trồng rau, đốt lò trong nhà tắm, hay nhào bột nướng bánh. Ông
lão không gặm nổi bánh mỳ “mậu dịch”. Và lúc ấy một ý nghĩ lóe lên trong ông, rằng
có lẽ bà già cũng sống khổ như ông vậy.
Ông
lão về nhà, uống một cốc để tưởng nhớ các con, và suy nghĩ sự việc kỹ hơn. Bà ấy
có thể bán căn nhà nhỏ của bà ấy đi và đến ở với mình. Tiền bán nhà thì để bà ấy
gửi tiết kiệm. Bà ấy đến sống ở đây, dù sao thì căn nhà cũng bớt trống trải. Ít
ra thì mình cũng có hơi nước trong nhà tắm, và được nghỉ ngơi dễ chịu sau khi tắm
nóng. Sẽ có người bày bàn ăn, và nói với mình thức ăn đã làm xong. Ngôi nhà sẽ
như sống lại, Sẽ khác lắm chứ nếu như lại nghe thấy tiếng lanh canh của chiếc kẹp
than bên bếp lò, sẽ lại ngửi thấy mùi bột lên men. Hay ban đêm không ngủ được,
lại có người trò chuyện. Bà ấy là người công giáo, tất nhiên. Mình nói năng phải
lựa lời. Không được xúc phạm đến Chúa, và còn cả bao nhiêu điều cấm kỵ khác.
Tôi đây, cũng đang trên đường xuống mồ. Trong cả cuộc đời, mình đã chửi thề đến
bao nhiêu lần. Ấy, bà ấy đến ở đây thì tốt biết bao. Nói gì thì nói, chứ ngôi
nhà vẫn cần một bà chủ. Nghĩ đến đây ông lão thật sự thấy phấn khích về cái viễn
cảnh ấy.
Ông
chọn ngày chủ nhật để đến thăm bà Ônga Xecghêepna Malysêva, cũng là một bà già
nhưng trẻ hơn bà Ôta, và là người phụ nữ có đầu óc. Đã có thời ông lão thầm yêu
bà Ônga Xecghêepna. Hồi đó ông còn là một gã trai trẻ, yêu mê mệt cô Ônga xinh
đẹp và có cái đầu mạnh mẽ. Ông đã tính chuyện nhờ mai mối đến nhà Ônga nhưng rồi
cách mạng nổ ra. Một ngày kia có một chàng chính ủy trẻ tuổi xuất hiện trong
làng. Chàng mau chóng làm xoay cái đầu Ônga về phía mình, rồi đem nàng đi đâu
đó.
Chà,
anh ta đã cố làm mọi chuyện ổn thỏa nhưng rồi đến một lúc anh ta bỗng biến mất.
Chúa đã làm cho mọi chuyện lộn nhào. Ônga trở về và từ đó sống một mình. Một
hôm, khi còn là một chàng trai trẻ nhưng đã có vợ, Glukhôp đến gặp Ônga ở Xô viết
làng (cô ta làm thư ký ở đấy) và bộc lộ nỗi lòng mình với cô. Ônga Xecghêepna hết
sức giận dữ, bật khóc và tuyên bố rằng sau chàng chính ủy hào hoa của cô, cho đến
hết đời cô sẽ không để cho bất kỳ người đàn ông nào đến gần. Glukhôp cố sức giải
thích rằng anh chẳng có một ý đồ xấu nào đối với cô, mà chỉ muốn nói trước đây
anh đã từng yêu cô (lúc này anh vừa uống vài ly). Điều đó có gì không tốt?
Nhưng Ônga lại tỏ ra còn bị xúc phạm nhiều hơn và tuyên bố rằng tất cả bọn đàn
ông trên thế giới này kết hợp lại cũng không đáng xách dép cho người chính ủy
không-thể-nào-quên của cô. Thực tế cô đã làm cho tất cả đám đàn ông con trai
trong làng này khiếp vía bằng những câu chuyện về chàng chính ủy của cô, đến nỗi
ngoài Glikhôp ra, ai cũng ngán không dám đến gần cô.
Nhưng
từ đó đến nay đã nhiều năm trôi qua. Tất cả chuyện đó từ lâu đã lui vào dĩ vãng
và quên lãng, và cuộc sống cứ tiếp diễn theo cái nhịp hối hả của nó. Những tình
yêu khác ra đời, không phải tình yêu của họ. Ông Glukhôp và bà Ônga đã nghỉ hưu
cả, và giữa họ hình thành một tình bạn hơi kỳ lạ. Ông già Glukhôp thường đến
giúp bà Ônga một tay làm các việc bên ngoài, như quét dọn tuyết ngoài sân, bổ củi,
rọi lại mái nhà, rồi ngồi lại với nhau chuyện vãn. Ônga Xecghêepna mang đặt lên
bàn một chai rượu. Nhưng ông Glukhôp lại tỏ ra lúng túng vì sự có mặt của bà,
và bắt đầu ca ngợi chính quyền Xô viết hơi quá:
“Chính
quyền của chúng ta quả thật chu đáo. Ngày xưa người ta cứ sống cứ già đi như quả
núi mà chẳng ai giúp ích gì cho anh. Còn bây giờ thì có lương hưu. Tại sao, tôi
hỏi bà, họ lại cho tôi mỗi tháng hai mươi rúp? Thằng con tôi mỗi lần về cho tôi
đến 5 rúp là cùng, mà nhiều lúc nó còn quên. Nhưng chính phủ ta, chu đáo làm
sao, tháng nào cũng nhớ. Ái dà, chính là những chính ủy của chúng ta đã biết rõ
cái gì ra cái gì. Họ cống hiến cả cuộc đời cho một tương lai tươi sáng. Bà Ônga
Xecghêepna, tôi đề nghị chúng ta đứng dậy một phút tưởng nhớ đến họ.”
Nhưng
Ônga Xecghêepna không hề bị tác động.
“Ngồi
xuống, ông.” Bà nói với giọng vững vàng. “Nói chuyện đó bây giờ làm gì nào? Tất
cả mọi chuyện đã qua rồi.”
Bây
giờ bà ít khi nhớ đến chàng chính ủy của mình, và càng ngày càng hay nói về những
cảm giác thường đến với bà vào ban đêm.
“Nó
đến với tôi thật đột ngột, cái cảm giác ấy, tôi tự nhủ thế là đã đến rồi, cái
chết đã gõ cửa.”
“Bà thấy cảm giác ấy ở đâu? Ở ngực phải không?”
“Tất
cả. Toàn thân tôi, từ đầu đến chân. Số của tôi đã đến rồi. Và người tôi cứ tê hết
cả đi không còn nhúc nhắc được tay với chân. Tôi thấy mình đang trôi nổi, bồng
bềnh đi đâu đó. Cứ bồng bềnh bồng bềnh…”
“Ái
dà,” Glukhôp nói một cách thông cảm. “Chính là điều ấy đấy, tất cả chúng ta sẽ
có ngày trôi đi về nơi nào đó.”
Sau
khi chôn cất bà vợ, Glukhôp càng hay đến thăm bà Ônga Xecghêepna. Họ thường
thích ngồi với nhau trong hành lang, uống trà pha với mật ong. Mật ông thì ông
lão mang đến trong chiếc giỏ đan.
“Ông
thấy cô đơn lắm phải không?”
“Ờ,
Glukhôp bắt đầu thấy hăng lên. Một mất mát lớn, tất nhiên. Dù sao chúng tôi
cũng đã chung sống hơn năm mươi năm.”
“Các
người có thể sống chung đến một trăm năm. Nhưng có chút ý nghĩa gì không? Con
voi nó sống đến hai trăm năm đấy, nhưng ý nghĩa ở đâu?”
Glukhôp
phật ý.
“Tôi
có ba đứa con đã chết trong chiến tranh! Mà bây giờ bà nói với tôi như thế!”
“Tôi
chẳng nói gì cả” bà Ônga Xecghêepna quặc lại. “Chúng nó chết là hy sinh cho tổ
quốc.”
“Tất
nhiên tôi nhớ bà ấy” Glukhôp đáp lại lúc này cứng cỏi hơn. “Biết bao nhiêu điều
bà ấy phải chịu đựng vì tôi. Bà ấy chịu đựng tất cả. Hồi trẻ tôi là một gã trai
bạt mạng, bà biết đấy. Ăn chơi hoang toàng. Bà ấy chịu đựng tất cả. Ôi chao, thật
là một mất mát quá lớn…”
“Ý
thức xã hội..” bà Malysêva bỗng nói và thở dài. “Đàn ông các người, cứ là phải
đập cho ra trò mới thành người được. Phải hai trăm năm nữa mới làm ra được chút
gì con người trong các ông. Ông, chẳng hạn, ông đã sống với bà ấy năm mươi năm.
Và bây giờ? Ông không có một lời nào để nói về việc đó. Có nhiều cỏ dại mọc
trong mảnh đất của tôi. Chúng mọc lên và sống nhiều năm, nhưng bên cạnh đó là
những cây dâu tây. Liệu có sự khác biệt nào không?”
“Bà
đang bực bội về chuyện gì?” Glukhôp hoang mang hỏi.
“Có
sự khác biệt nào không, tôi hỏi ông!”
“Nhưng
sao bà có thể so sánh..”
“Tôi
có thể và tôi sẽ! Bởi vì có một số người đã sống và cháy lên như ngọn lửa,
trong khi những người khác thì mốc meo lên. Một số thì sống đầy ý nghĩa đến
chân tơ kẽ tóc, còn những người khác thì sao? Chỉ biết làm công việc của mình
và chấm hết. Những con ngựa giống.”
“Không
phải ai cũng thành chính ủy cả.” Glukhôp nói một cách bực bội,bị chạm mọc vì chữ
“ngựa giống”.
“Sống
với bà ấy nam mươi năm” Malysêva chế nhạo “nhưng có tuần lễ nào trong đó có
chút ý nghĩa gì không?”
“Có
nhiều ý nghĩa lắm chứ. Quá đủ ý nghĩa.”
“Thế
là rõ” Malysêva bậm môi đến đỏ lên như “mũi thầy tu”
Glukhôp
cảm thấy hình như ông đã chọc giận bà Malysêva điều gì đó, mặc dầu có đến hết đời
ông cũng không thể hiểu tại sao.
Nhưng
ông vẫn tiếp tục đến thăm bà. Đôi khi họ sắp đến gần chỗ cãi nhau, đôi khi
không đến nỗi quá tệ, họ ngồi trao đổi câu chuyện thân tình. Dù sao nó cũng
giúp qua được buổi tối.
Vào
cái ngày chủ nhật đã định, Glukhôp đến nhà bà Malysêva mà không mang theo rìu
và cưa. Ông đến nói chuyện với bà và xin một lời khuyên.
“Tôi
cần một lời khuyên của bà, Malysêva, bà hãy giúp tôi.”
“Có
chuyện gì vậy?” Malysêva lắng nghe. Bà thích khuyên bảo người khác.
“Bà
có biết một phụ nữ tên là Ôtavina không?”
“Có chuyện gì với bà ta?”
“Nhờ
bà sang có lời với bà ấy, hỏi xem bà ấy có chịu chuyển đến sống với tôi không?
Bà ấy có thể bán căn nhà của bà ấy, hay đóng cửa lại trong một thời gian. Chúng
tôi sẽ sống với nhau một thời gian, xem có hợp với nhau không, sau đó sẽ bán
căn nhà đi. Bà nghĩ thế nào? Tôi không có can đảm nói thẳng với bà ấy, nhưng bà
sẽ biết phải nói gì. Tôi sẽ đối xử tốt với bà ấy. Dù sao thì đứng trên bốn chân
cũng cững chãi hơn hai chân, dẫu rằng bây gờ chúng không còn mạnh mẽ linh hoạt
như xưa. Bà nghĩ sao?” Glukhôp nói nhiều hơn mọi khi và ông nói nhanh lạ thường,
ông đang bối rối. “Tôi đã nghĩ đi nghĩ lại rồi, và bây giờ tôi đã tìm thấy câu
trả lời. Sống cô độc là hỏng. Và tôi đoán rằng bà ấy cũng sẽ thấy dễ chịu hơn.
Bà nghĩ thế nào?”
Malysêva
hết sức ngạc nhiên. Bà ngạc nhiên đến nỗi lúc đầu không tìm ra câu nào hợp lý để
nói.
“Muốn
kết hôn, hả?”
“Ờ,
khó có thể gọi đó là hôn nhân.. Chúng tôi chỉ muốn sống chung với nhau cho cuộc
sống dễ thở hơn một chút.”
“Dưới
con mắt của pháp luật thì đó là hôn nhân. Sao không thành thật mà nói như thế.”
Glukhôp
bất giác lùi lại.
“Thôi
được, thì, coi như tôi kết hôn. Như thế có gì sai trái?”
Malysêva
quan sát người đàn ông một cách lạ lùng với một căm ghét cố che dấu.
“Bà ấy
có bằng lòng không? Dù ông bảo chưa có thời gian nói với bà ấy.”
“Bà ấy
chưa biết gì cả. Chính thế tôi mới nhờ bà nói với bà ấy. Nói với bà ấy và nếu cần
thì thuyết phục một chút. Bà ấy là người theo đạo, bà biết đấy, và bà ấy có thể
bảo như thế là tội lỗi. Nhưng tội lỗi cái gì cơ chứ. Hãy nhìn vấn đề một cách hợp
tình hợp lý. Tôi cô đơn, bà ấy cũng cô đơn…”
“Bà ấy
có con gái ở thành phố cơ mà?”
“Thế
thì sao? Tôi cũng có đứa con trai ở thành phố. Bây giờ nhở vả được chúng nó đấy
chắc? Nhưng nếu chúng tôi sống chung với nhau, chúng tôi có thể nương tựa lẫn
nhau những ngày còn lại. Người nào chết trước sẽ có người kia chôn cất.”
“Nhưng
các người còn có con cái.” Malysêva bỗng lên giọng giận dữ. “Tại sao các người
lại tự biến mình thành những kẻ tứ cố vô thân?”
Glukhôp
không trả lời. Đến lượt mình, ông nhìn Malysêva bằng cái nhìn sắc nhọn và giận
dữ. Không biết bà này làm sao thế nhỉ.
“Có
chuyện gì thế, bà Malysêva?”
“Chẳng
có chuyện gì với tôi cả. Ông là người sẽ kết hôn, không phải tôi. Ông hỏi tôi
có gì không ổn. Tôi hoàn toàn bình thường.”
“Hình
như bà đang giận.”
“Không
hề! Tôi ư? Giận ấy à? Nghĩ gì kỳ quặc. Hừ. Kết hôn! Ông muốn tôi đến nói với
Ôtavina? Tôi sẽ nói!” Bây giờ đến lượt Malysêva đỏ bừng mặt và nói liên hồi nhiều
hơn cần thiết. “Tôi sẽ kéo bà ấy ra ngoài nói chuyện, việc ấy không có gì khó đối
với tôi. Tôi sẽ xem bà ấy có đồng ý không. Tại sao tôi phải giận dữ? Chính các
người sé bị người ta chê cười, chứ không phải tôi.”
“Bà
bảo người ta sẽ..?”
“Người
ta sẽ làm sao?”
“Người
ta sẽ chê cười chúng tôi à?”
“Thế
ông tưởng họ sẽ hài lòng chắc?”
“Thế
người già không bao giờ tái hôn hay sao?”
“Đôi
khi cũng có. Thôi được. Tối mai ông đến đây. Tôi sẽ hẹn bà ấy đến sớm hơn một
lát, để chúng tôi có thể nói chuyện trước. Rồi ông đến sau. Được, tất nhiên, đôi
khi việc đó có xảy ra. Nhiều người đã làm thế. Tôi sẽ nói chuyện với bà ấy, đừng
lo. Tôi sẽ nói với bà ấy.”
Glukhôp
từ giã bà Malysêva mà trong lòng bối rối không yên. Ông lão có cảm giác bà ấy
có một ý đồ nào đó. Bà ấy là một bà già khó tính, điều ấy đã rõ. Luôn luôn cáu
bẳn vì một chuyện gì đó. Lúc nào cũng muốn cải tạo mọi người, muốn biến người
ta thành người khác, dạy họ phải sống như thế nào, đưa ra những phán xét về họ.
Ông già thậm chí còn nghĩ có nên quay lại để rút lại lời nhờ vả, nói với bà ấy
rằng ông sẽ cố tự mình giải quyết lấy. Ông dừng lại để nghĩ cho thấu đáo. Rốt
cuộc đây là vấn đề gì? Thôi cứ để bà ấy nói. Ông cũng có thể tự mình nói lấy,
nhưng chắc không bằng. Bà ấy thì nóng tính thật đấy, nhưng chắc bà ấy sẽ làm
như bà ấy hứa.
Ngày
hôm sau hai người đàn bà – Malysêva và Ôtavina – gặp nhau, và cuộc nói chuyện
đã diễn ra.
Bà
Ôtavina đến nhà bà Malysêva, và việc đầu tiên là nhìn vào góc phải phía trước của
căn phòng, hy vọng thấy ở đó một tượng thánh; rồi bà rón rén ngồi vào mép chiếc
ghế sô pha bọc nhung, và nói lời chào.
“Tôi
mời bà đến đây là có chuyện thế này” bà Malysêva vào đề ngay “bà biết ông
Glukhôp chứ?
“Ông
Êmêlian Yêgôrich phải không ạ? À có. Ba đứa con ông đã hy sinh…”
“Ờ,
ông ấy muốn cưới bà đấy” Malysêva nói nhanh “Bà có đồng ý không?”
“Lạy
Chúa” Ôta làm dấu thánh giá. “Ông ấy nói vậy à?”
“Tại
sao không?” bà Malysêva bỗng cao hứng bất ngờ. “Hai người đang sống một mình.
Hãy nghĩ cho kỹ trước khi trả lời. Lão ta cũng là con dê già như tất cả bọn họ,
nhưng lão có thể giúp bà sống nốt những ngày còn lại. Bà có nghĩ về chuyện đó
không? Ông ấy bảo bà chưa cần bán căn nhà vội. Trước mắt bà cứ khóa nó lại. Nếu
ông bà muốn tiếp tục đi tới, bà sẽ bán nó đi mà gửi tiền vào ngân hàng. Sao, bà
nghĩ thế nào về chuyện đó?”
“Tôi
biết nghĩ thế nào? Tất cả mọi ý nghĩ đã bay hết khỏi đầu tôi. Làm sao tôi có thể
vội vã đâm đầu vào một cuộc hôn nhân như
thế?” Bà Ôtavina khẽ cười một cách thật thà. “Đã đủ điên rồ chưa? Tôi mà làm một
cô dâu mới hay chứ.”
“Và
lão ta sẽ làm một chú rể đẹp. Sao, thế nào?”
“Chờ
một chút, bà Malysêva. Cho tôi kịp thở đã chứ.”
“Ông
ấy sắp đến nhận câu trả lời của bà đấy.”
“Ôi!”
Ôtavina hầu như nhỏm dậy khỏi ghế sôpha ngó nhìn ra cửa. Rồ bà lại ngồi xuống.”
“Ờ, đây là cả một vấn đề đấy.”
“Tôi
thấy hình như bà đã bằng lòng.”
Ôtavina
bắt đầu suy nghĩ một cách nghiêm túc hơn.
“Tôi
muốn nói với bà thế này, bà Xecghêepna ạ. Ông ấy là một ông già không tệ lắm.
Ông ấy không uống rượu, không báng bổ Chúa như những người khác. Chỉ có điều..”
bà nhìn bà mối “Vâng, chuyện người già lấy nhau đôi khi có xảy ra”
“Phải,
có xảy ra.”
“Nhưng…đêm
đêm ông ấy có quấy rầy không?”
Bà
Malysêva há cả mồm ra:
“Sao?”
“Phải,
bà biết tôi định nói chuyện gì mà. Bà Malysêva, tôi chỉ muốn được đảm bảo ông ấy
sẽ không vướng vào những chuyện như thế. Và ông ấy không được chử thề. Tất
nhiên ông ấy hút thuốc. Nhưng mà ai cũng hút cả, mình không cấm được người ta.”
“Vậy
là bà đồng ý, phải không?” Malysêva thốt lên kinh ngạc.
“Đợi
một tí, bà đừng làm tôi cuống lên như vậy. Như tôi vừa nói đấy, tôi đã đưa ra khá
nhiều điều kiện. Ông ấy không được làm cái này, không được làm cái kia. Ông ấy
sẽ nghĩ về những điều đó và nói “Được, vậy cuối cùng tôi được phép làm cái gì?
Và như vậy thf toàn bộ cuộc mai mối này sẽ chẳng đi đến đâu.” Ôtavina lại cười
khẽ. “Vâng, tôi phải thú nhận rằng tôi chưa bao giờ nghĩ…Chúa tha tội. Sự việc
sẽ không đến nỗi tệ thế, phải không? Một trong những người bạn tốt của tôi – hồi
đó bà ấy sống ở Bulanikha, nơi tôi sống trước đây – cũng có chuyện tương tự xảy
ra với bà ấy. Một ông già đến với bà ấy và muốn nói chuyện này chuyện kia, sau
cùng ông ấy bảo “chúng mình hãy sống chung đi, bà Kuzmovna” và thế là họ sống
chung. Ông ấy mới chết cách đây hai năm, bây giờ bà ấy ở trong căn nhà của ông ấy.
Họ sống với nhau rất tốt đẹp, tôi biết. Được bao lâu à? Khoảng năm năm. Ông ấy
chẳng bao giờ làm điều gì để bà ấy phải phàn nàn. Người ta càng về già càng trở
nên khôn ngoan hơn. Chẳng như bọn trẻ bây giờ. Chỉ cần nhìn quanh thì rõ, Chúa
tha tội! trông thấy mà kinh…Tất nhiên đối với tôi sẽ không phải là điều tồi tệ
khi được sống trong căn nhà ấm áp. Căn nhà của tôi xập xệ lắm rồi. Cũng mừng là
mùa đông đã qua. Cách nào cũng không thể làm cho căn nhà ấm áp lên được. Có bao
nhiêu dầu thì tôi đã đốt hết rồi. Trời mưa thì nhà cứ như là cái rá…”
“Sao
bà không chuyển lên sống với con gái trên thành phố?”
“Chẳng
hy vọng gì! Chúng nó sống cũng đã chen chúc lắm rồi. Tôi cũng đã thử. Khi các
cháu tôi còn nhỏ, tôi đã ở đấy với chúng nó. Thật là khủng khiếp. Khủng khiếp đối
với mọi người. Sau đó bọn trẻ lớn lên và bắt đầu đi học. nên chúng nó mua cho
tôi căn lều nhỏ này, thế mà tôi đã vui sướng làm sao. Tôi đã bán cả căn nhà
riêng của tôi ở Bulanikha khi con gái tôi lấy chồng. Đó là một ngôi nhà rất
kiên cố. Nó còn đứng vững đến hàng trăm năm nữa. Nhưng tôi đã bán nó đi. Tôi cần
phải bán. Chúng nó cần tiền để mua một căn hộ, nhưng lấy đâu ra? Thằng kia thì
mới giải ngũ, con gái tôi thì chỉ mới tốt nghiệp trung cấp. chúng nó bảo mẹ ơi,
mẹ bán nhà đi, sau này chúng con sẽ mua cho mẹ căn nhà khác nếu mẹ không muốn sống
chung với chúng con. Vậy là tôi sống với chúng và nuôi lớn mấy cháu tôi, nhưng
sau đó – không, tôi nói, mua cho mẹ một chỗ ở riêng, bé thế nào cũng được. Tôi
không chịu nổi thành phố, nó làm tôi thật khó chịu. Chúng nó hầm hừ một tí, rồi
cũng chịu, sau đó đi kiếm tiền. Nhà cửa ở đây rẻ hơn ở Bulanikha, và thế là tôi
dạt về đây. Tất nhiên, sẽ không phải là tệ nếu cuối đời tôi lại được sống trong
một căn nhà ấm áp dễ chịu. Không tệ lắm.”
Ông
già Glukhôp biết có cuộc nói chuyện giữa hai phụ nữ, nhưng ông không biết câu
chuyện diễn ra như thế nào. Bởi vậy ông chỉ biết khoác một chiếc áo vét mới, cầm
chai rượu và xách giỏ mật, thẳng hướng sang nhà bà Malysêva.
Ông
bước vào và ngỏ lời chào khá trân trọng, rồi, không biết vì sao trở nên bối rối,
đặt chai rượu và chiếc giỏ lên bàn, lóng ngóng thọc tay vào túi lấy thuốc hút.
“Hãy
đợi một chút với chai rượu của ông. Không việc gì mà cuống lên thế.”
Trái
tim ông già lịm đi. Lúc này ông đã quen với ý nghĩ về cuộc sống chung với
Ôtavina, ông đã nghĩ đủ khía cạnh về nó. Còn bây giờ sao?
“Tôi
đã nghe tất cả những gì mỗi người nói ra. Đây là cuộc sống riêng của các người,
tất nhiên, các người có quyền cạp lại với nhau nếu các người muốn. Một số người
trở nên điên rồ lúc về già nhưng ngay cả chuyện đó cũng không thành vấn đề. Tôi
chỉ muốn hỏi hai người điều này: các người có biết xấu hổ hay không? Có biết
không?” Bà ném mạnh những lời đó vào mặt họ, với một vẻ độc ác không thể hiểu nổi,
với tất cả cảm xúc của một trái tim bị vò xé bởi nỗi đau thầm kín nào đó. Và bà
tiếp tục quăng vào mặt họ, không cần để ý đến hai người đính-hôn-hụt mặt đỏ bừng
đang đứng như trời trồng, không biết họ khổ sở vì bị xúc phạm ghê gớm như thế
nào. “Làm sao các người sau đó còn dám ngẩng đầu lên nhìn thiên hạ nữa hở? Làm
sao? Có những người cả đời sống một mình.. Tôi đã sống một mình cả đời tôi, từ
khi tôi mới hăm ba..và các người tưởng không có ai cầu hôn tôi sao? Ồ có chứ.
Các người nghĩ rằng đêm đêm không có ai đến gõ cửa sổ nhà tôi sao? Có đấy. Ông,
Glukhôp, ông không từng đến tìm tôi ở Xô viết làng và nói không thể sống thiếu
tôi hay sao? Có không, nào, nói đi, ông có không?”
Glukhôp
như muốn chui xuống đất, ông cố nuốt nhục:
“Đó
chỉ là sự ngu ngốc của tôi, khi ấy tôi mới uống rượu” ông phều phào. “Tôi không
hề cầu hôn bà. ..Tôi chỉ nói về quá khứ. Tại sao bây giờ bà lại nói những chuyện
ấy?”
“Ngu
ngốc của tôi! Còn bây giờ ông ấy là một người thông minh - ở tuổi bảy mươi ông ấy
đòi cưới vợ. Thông minh thật. Còn bà! “Tôi phải suy nghĩ kỹ mới được. Sống
trong một ngôi nhà ấm áp dễ chịu! Thế mà cũng là một người ngoan đạo đấy. Cũng
tồi tệ không kém lão ta. Các người chỉ ra những tội lỗi của người khác. Nhưng
thử nhìn lại bản thân mình xem. Các người nêu tấm gương gì cho bọn trẻ? Các người
đã nghĩ đến điều đó chưa? Các người thực hiện trách nhiệm của mình trước cộng đồng
như thế nào?” Malysêva đập mạnh bàn tay khô khốc của mình xuống bàn. “Các người
có bao giờ suy nghĩ chuyện đó không? Đồ ích kỷ. Mọi người đang làm việc hết sức
mình, trong khi đó các người bày đặt đòi làm đám cưới, định lôi kéo mọi người vào
rượu chè và những trò vô tích sự. Thật không biết xấu hổ.”
“Đám
cưới nào?” Glukhôp lại khùng lên. Ôtavina vẫn im lặng. “Chúng tôi chỉ định lặng
lẽ về sống với nhau. Đám cưới nào?”
“Thật
là được một đôi. Khác nào quân đầu đường xó chợ. Xì! Như đồ súc vật.”
“Thế
này… thế này thì quá lắm rồi.” Ông già lồng lên. Ông bước ra khỏi nhà, dập cửa
đánh sầm sau lưng.
Ôtavina
rời khỏi nhà ngay sau ông. Tất nhiên cả hai cắm đầu đi như ma đuổi. Vừa ra khỏi
cửa mỗi người đi một hướng thậm chí không cả ngoái nhìn nhau một lần, dù cho lẽ
ra hai người phải đi một quãng đường chung khá dài trước khi ai về nhà nấy.
Ông
già Glukhôp đi dạo một vòng rộng quanh làng trước khi về nhà. Ông khạc nhổ và
chửi thề lầm rầm luôn miệng vì tức tối, không thể yên lấy một phút. Trong cơn điên
giận thậm chí ông còn tự bảo: “tao phải đốt nhà con chó cái ấy.”
Ông
không làm chuyện gì như thế cả, nhưng ông thề rằng sẽ không bao giờ sang nhà bà
ta nữa. Mỗi khi gặp bà ta trên đường, ông rẽ ngoặt ngay sang lối khác.
Ôtavina
chuyển lên thành phố, vào nhà thờ cầu nguyện để xin chuộc lỗi. Bà già vô cùng bối
rối và cố tránh gặp mặt Malysêva chừng nào có thể.
Malysêva
không nói với ai về cuộc mối mai kỳ quặc đó. Cả ông Glukhôp và bà Ôtavina đều
nơm nớp nghĩ rằng bà ta sẽ đi rêu rao khắp làng. Nhưng không, bà ta chẳng hé một
lời nào với ai về chuyện đó.
Bản Tiếng Việt ©: 2001 Hiếu Tân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét