George Orwell
Eric Arthur Blair (25/6/1903 - 21/1/1950), nổi tiếng với bút danh George Orwell, là một nhà văn và nhà báo người Anh. Được biết đến như một tiểu thuyết gia, một nhà phê bình, một nhà bình luận về văn hóa, Orwell là một trong những ngòi bút tiếng Anh được hâm mộ nhất ở thế kỷ 20. Các tác phẩm của ông nổi bật về sự trong sáng, thông minh và sắc sảo, ý thức về những bất công xã hội, chống chủ nghĩa toàn trị và tin vào chủ nghĩa xã hội dân chủ. Hai tác phẩm nổi tiếng nhất của ông được xuất bản vào lúc cuối đời, cuốn tiểu thuyết phản-khôngtưởng “Một chín tám tư” (Nineteen Eighty-Four) và tiểu thuyết phúng dụ “Trại súc vật” (Animal Farm).
BẮN MỘT CON VOI
HIẾU TÂN dịch
Ở Moulmein, miền Hạ Burma (Miến Điện) tôi bị rất nhiều người ghét – đó là thời gian duy nhất trong đời tôi mà tôi đủ tầm quan trọng để cho chuyện đó xảy ra với tôi. Tôi là một sĩ quan cảnh sát của một tiểu khu trong thành phố, ở đó cái cảm giác ghét Tây rất vu vơ và nhỏ mọn đặc biệt gay gắt. Không ai đủ can đảm dấy lên một cuộc nổi loạn, nhưng nếu có một người đàn bà Âu đi qua chợ một mình thì thế nào cũng có kẻ nhổ nước quết trầu lên váy bà ta.
Là sĩ quan cảnh sát tôi rõ ràng là mục tiêu cho những trò trêu chọc quấy nhiễu bất cứ lúc nào việc làm thế có vẻ an toàn. Khi một cầu thủ Miến ma lanh ngáng cho tôi ngã trong lúc trọng tài (một người Miến khác) ngó lơ chỗ khác thì cả đám đông rộ lên một tràng cười ghê tởm. Những chuyện như thế không chỉ xảy ra một lần. Những khuôn mặt thanh niên da vàng nhăn nhở nhạo báng mà tôi gặp ở khắp nơi, những tiếng chửi thét vọng theo sau lưng tôi khi tôi ở một khoảng cách an toàn (cho họ), lọt vào cân não tôi nhức nhối. Những chú tiểu Miến Điện là tệ hại nhất. Trong thành phố có hàng ngàn đứa, và chẳng đứa nào có việc gì để làm trừ việc đứng rình ở góc phố để chế nhạo những người Âu.
Tất cả những chuyện này thật lộn xộn và khó chịu. Vì vào thời gian đó tôi đã quyết định rằng chủ nghĩa đế quốc là xấu và tôi sẽ vứt bỏ công việc của tôi và thoát ra càng sớm càng tốt. Về lý vthuyết – và bí mật, tất nhiên – tôi hoàn toàn đứng về phía người Miến và hoàn toàn chống lại những kẻ áp bức - người Anh. Về công việc mà tôi đang làm, tôi ghét cay ghét đắng. Trong một công việc như thế người ta thấy đủ mọi thứ bẩn thỉu của Đế quốc trong những khu vực đóng kín. Những tù nhân khốn khổ chen chúc trong những xà lim hôi thối của các trại giam, những khuôn mặt xám ngoét sợ hãi của những tù dài hạn, những cặp mông đầy sẹo của những người đàn ông bị đánh bằng roi tre - tất cả những cái ấy bóp nghẹt tim tôi bằng một cảm giác tội lỗi không sao chịu nổi. Nhưng tôi không thể làm gì được trong cảnh này. Tôi còn trẻ và ít học, và tôi đã phải suy nghĩ rất lung về vấn đề của mình trong cái im lặng hoàn toàn áp đặt lên mọi người Anh sống ở phương Đông. Thậm chí tôi không hề hay biết rằng Đế quốc Anh đang hấp hối, tôi lại càng biết ít hơn về chuyện nó còn tốt gấp mấy lần những đế quốc trẻ đang hất cẳng nó. Tôi chỉ biết là tôi đang bị kẹt giữa lòng căm ghét của tôi đối với cái đế quốc mà tôi đang phục vụ và sự căm giận của tôi đối với bọn quái con thô lỗ xấu tính đang cố gắng làm cho công việc của tôi trở nên không thể chịu nổi. Trong óc tôi một phần tôi nghĩ về viên Toàn quyền Anh như một bạo chúa không ai dám động đến, như một sự kìm kẹp đè bẹp ý chí của những con người đã bị hạ gục; còn phần óc kia tôi nghĩ rằng niềm vui lớn nhất trên thế giới là được thọc lưỡi lê vào bụng của một thằng sư trẻ. Những tình cảm như vậy là những sản phẩm phụ bình thường của chủ nghĩa đế quốc; không tin cứ hỏi bất kỳ một quan chức Anh-Ấn nào, nếu bạn có thể chộp được ông ta ngoài lúc thi hành phận sự.
Một hôm có một sự việc xảy ra, bằng một con đường quanh co nó khiến tôi chợt ngộ. Bản thân nó là một tai nạn nhỏ, nhưng nó soi sáng tâm tư tôi trong lúc đầu tôi đầy những ý nghĩ rối rắm về bản chất thật của chủ nghĩa đế quốc - những động cơ hành động thật sự của các chính phủ bạo ngược. Lúc sáng sớm ông phó thanh tra từ một đồn cảnh sát ở đầu bên kia của thành phố gọi điện thoại cho tôi nói rằng có một con voi đang phá phách khu chợ. Đề nghị tôi có thể đến và giải quyết. Tôi không biết tôi có thể làm được gì, nhưng tôi muốn thấy điều đang xảy ra nên tôi nhảy lên ngựa phóng đi. Tôi mang theo khẩu súng trường, một khẩu Winchester .44 quá nhỏ không thể dùng để bắn voi, nhưng tôi nghĩ tiếng súng có thể doạ cho nó sợ. Nhiều người Miến chặn tôi lại trên đường đi và kể cho tôi nghe những hành động của con voi. Tất nhiên đây không phải là một con voi hoang dã mà là voi đã thuần hoá, bỗng lên cơn hung dữ. Trước nay nó vẫn bị xích, như tất cả những con voi thuần hoá khi lên “cơn hung”, nhưng đêm qua nó đã giật đứt xích và trốn thoát. Viên quản tượng, người duy nhất có thể xử lý được nó khi nó lên cơn như thế này, đã lao đi đuổi theo nó, nhưng lại lạc đi hướng khác và lúc này đã qua mười hai giờ, và buổi sáng con voi bỗng nhiên xuất hiện trong thành phố. Dân cư Miến không có vũ khí và hoàn toàn không biết bấu víu vào đâu trước con voi dữ. Nó đã húc đổ một số lều tre, giết chết một con bò, đột kích một quầy rau quả và ăn ngấu nghiến trái cây trong đó, nó cũng đã gặp chiếc xe đổ rác thành phố và khi người tài xế nhảy ra và chạy bán sống bán chết, nó đã lật đổ chiếc xe rồi cứ thế nện lên đó một cách dữ tợn.
Viên phó cảnh sát người Miến và một số nhân viên cảnh sát đang đợi tôi ở khu vực đó – nơi họ thấy con voi. Đó là một khu rất nghèo, chằng chịt những túp lều tranh dơ dáy bẩn thỉu, lợp bằng lá cọ, uốn quanh một sườn đồi thoai thoải. Tôi nhớ hôm ấy là một buổi sáng nhiều mây, ngột ngạt lúc bắt đầu mưa. Chúng tôi bắt đầu hỏi nhân dân ở đó về những nơi con voi đã đi qua và, giống như mọi lần, chẳng thu được thông tin gì rõ ràng cả. Ở phương Đông chuyện này xảy ra muôn lần như một, một câu chuyện khi nghe ở xa thì khá rõ ràng mạch lạc, nhưng càng gần đến nơi xảy ra sự việc thì câu chuyện càng trở nên mơ hồ. Một số người nói con voi đi hướng này, một số khác bảo nó đi hướng kia, một số thậm chí thú nhận còn chưa nghe nói gì về con voi nào cả. Tôi gần như đã đi đến kết luận rằng toàn bộ câu chuyện này là một loạt những trò dối trá, thì chúng tôi bỗng nghe những tiếng kêu thất thanh ở một khoảng cách khá xa. Có tiếng gào to chửi bới “Cút ngay, lũ ranh con! Cút hết cả đi!” và một bà già cầm trong tay một cành cây non chạy vòng quanh góc một túp lều, xua đuổi một lũ trẻ con trần truồng. Một số phụ nữ khác chạy theo, tặc lưỡi và la lối, rõ ràng là có chuyện gì đó xảy ra mà trẻ con lẽ ra không nên xem. Tôi đi vòng qua góc túp lều và thấy thi thể một người đàn ông sõng soài trên bùn. Đó là một người Ấn, một cu li người Dravidian[1] da đen, gần như trần truồng, và ông ta chắc chỉ mới chết cách đây mấy phút. Người ta nói rằng con voi bỗng đột ngột dẫm lên ông ta ở góc lều, dùng vòi quấn ông ta, dẫm lên lưng ông ta và dận ông ta xuống đất. Lúc ấy đang là mùa mưa và đất nhão, đầu ông ta rạch một cái rãnh sâu ba tấc và dài đến mấy thước. Ông ta nằm sấp, hai cánh tay bắt chéo và đầu bị vặn nghoéo về một bên. Mặt ông ta bị phủ một lớp bùn, đôi mắt mở to, hàm răng nhe ra và nghiến chặt vẻ đau đớn khôn tả. (Nhân thể, đừng bao giờ nói với tôi rằng người chết trông hiền lành. Hầu hết những thi thể mà tôi đã thấy đều có vẻ hiểm ác). Sự cọ xát của chân con quái vật khổng lồ ấy đã tước đi một mảng da trên lưng người đàn ông gọn như người ta lột da một con thỏ. Vừa trông thấy người chết tôi liền sai một lính vào nhà một người bạn ở gần đó mượn một khẩu súng săn voi. Tôi đã gửi con ngựa về, không muốn nó phát điên vì sợ và quăng tôi xuống đất khi nó ngửi thấy mùi con voi.
Vài phút sau người lính trở về với một khẩu súng trường và năm viên đạn, trong lúc đó một số người Miến đến bảo chúng tôi rằng con voi đang ở dưới ruộng lúa dưới kia, chỉ cách đây vài trăm thước. Khi tôi bắt đầu tiến lên thì gần như toàn bộ dân cư của khu đó ào ra khỏi nhà và đi theo tôi. Họ đã nhìn thấy khẩu súng và kêu lên kích động rằng tôi sắp sửa bắn con voi. Họ không tỏ vẻ quan tâm nhiều lắm đến con voi khi nó chỉ tàn phá những ngôi nhà của họ, nhưng nay nó sắp bị bắn thì lại là chuyện khác. Đối với họ chuyện này khá vui, như nó có thể đối với một đám đông người Anh; ngoài ra họ muốn lấy thịt. Điều này làm tôi cảm thấy hơi khó chịu. Tôi không có ý định bắn con voi – tôi chỉ mượn khẩu súng để bảo vệ bản thân khi cần thiết, và khi có một đám đông đi theo mình thì người ta luôn luôn mất nhuệ khí. Tôi đi bộ xuống đồi, trông ngô nghê - mà tôi cũng cảm thấy thế - với một khẩu súng trường đeo trên vai và một đội quân ô hợp càng lúc càng đông chen lấn xô đẩy nhau bám sát gót. Cuối cùng, khi đoàn người đi xa khỏi những túp lều, có một con đường rải đá và phía bên kia là một ruộng lúa lầy bùn rộng hàng ngàn thước, chưa cày nhưng ngập nước do những trận mưa đầu tiên, và lấm tấm cỏ dại. Con voi đứng cách đường khoảng tám chục thước, hướng sườn bên trái về phía chúng tôi. Nó không mảy may để ý đến đám người đang đến gần. Nó đang rứt từng đám cỏ, đập vào đầu gối cho sạch và tọng cả vào mồm.
Tôi dừng lại trên đường. Ngay khi nhìn thấy con voi tôi hoàn toàn biết chắc rằng tôi không nên bắn nó. Việc bắn một con voi gia súc là một điều nghiêm trọng, nó tương tự như phá huỷ một cỗ máy khổng lồ và đắt tiền – và rõ ràng người ta không nên làm nếu có thể tránh được. Và ở khoảng cách đó, đang ăn một cách hiền lành, con voi trông không có gì nguy hiểm hơn một con bò. Khi đó tôi đã nghĩ và bây giờ tôi vẫn nghĩ rằng những cơn “hung dữ” của nó đã qua rồi, trong trường hợp này nó chỉ đi lang thang vô hại cho đến khi người quản tượng trở lại và bắt nó về. Hơn nữa, tôi không hề muốn bắn nó chút nào. Tôi quyết định rằng tôi sẽ chỉ quan sát nó một lúc để chắc chắn rằng nó không hung hãn trở lại, rồi về nhà.
Nhưng đúng lúc đó tôi liếc quanh một vòng đám đông đã theo tôi. Đó là một đám đông khổng lồ, ít nhất đến hai ngàn người, và lớn lên từng phút. Nó bịt kín con đường trên một quãng dài ở cả hai đầu. Tôi nhìn cái biển mặt người mầu vàng phía trên những quần áo loè loẹt - những khuôn mặt hạnh phúc và kích động về chút vui nhỏ nhoi này, tất cả đều chắc chắn là con voi sắp sửa bị bắn hạ. Họ đứng nhìn tôi như thể xem một nhà ảo thuật sắp diễn trò. Họ không thích tôi, nhưng với khẩu súng thần kỳ trong tay tôi lúc này tôi là người đáng xem. Và bỗng nhiên tôi nhận ra rằng rốt cuộc tôi nhất định sẽ phải bắn con voi. Người ta mong chờ tôi làm việc đó và tôi phải làm, tôi có thể cảm thấy hai ngàn ý chí của họ ép tôi tiến tới, không thể cưỡng được. Và chính trong khoảnh khắc này, khi tôi đứng đây với cây súng trong tay, lần đầu tiên tôi hiểu rõ sự giả dối và vô ích của nền thống trị của người da trắng ở phương Đông. Tôi đây, người da trắng có súng trong tay, đứng trước đám đông bản xứ không vũ khí – có vẻ như đang là diễn viên chính của vở kịch, nhưng trong thực tế tôi chỉ là một con rối ngớ ngẩn bị đẩy đi kéo lại bởi ý chí của những khuôn mặt da vàng kia ở đằng sau. Trong khoảnh khắc ấy tôi nhận thức được rằng khi người da trắng biến thành chuyên chế thì hắn đã phá hoại tự do của chính hắn. Hắn đã trở thành một loại người nộm điệu bộ rỗng tuếch, hình ảnh đã thành ước lệ của một “quan lớn” mẫu quốc. Vì chính điều kiện thống trị của hắn mà hắn sẽ tiêu cả cuộc đời cố gắng để gây ấn tượng với “người bản xứ” và như vậy trong mọi cuộc khủng hoảng hắn phải làm những gì mà những “người bản xứ” mong đợi ở hắn. Hắn đeo mặt nạ, và mặt hắn phải phồng lên để khít với nó. Tôi phải bắn con voi. Tôi đã tự mình cam kết làm điều đó khi tôi sai lính đi mượn khẩu súng. Một “quan lớn” phải hành động cho ra một quan lớn, hắn phải tỏ ra quyết đoán, phải biết hắn muốn gì và phải làm những việc nhất định. Đã đi lên con đường này, súng trong tay, với hai ngàn người diễu hành theo sau sát gót, rồi buông thõng khẩu súng, chẳng làm gì cả - không, không thể thế được. Đám đông sẽ cười vào mũi anh. Và cả cuộc đời tôi, cuộc đời của mọi người da trắng ở phương Đông, là một cuộc đấu tranh lâu dài để không bị cười vào mũi.
Nhưng tôi không muốn bắn con voi. Tôi nhìn nó đập bó cỏ vào đầu gối nó, với vẻ bận rộn ‘của bà ngoại’ mà loài voi thường có. Đối với tôi việc giết nó giống như giết người. Vào tuổi này tôi không còn thấy quá gớm khi giết những con vật, nhưng tôi chưa bao giờ bắn một con voi và không bao giờ muốn thế. (Không hiểu sao dường như việc giết những con vật lớn luôn là tệ hại nhất). Ngoài ra, còn phải tính đến người chủ của con voi. Còn sống, con voi có lẽ đáng giá ít nhất một trăm bảng. Nhưng tôi phải hành động nhanh. Tôi quay sang một số người Miến có vẻ từng trải, họ đã có mặt ở đó khi tôi đến, và hỏi họ con voi hành xử ra sao từ lúc ấy đến giờ. Tất cả bọn họ nói cùng một điều: nó không để ý gì đến anh nếu anh để nó yên, nhưng nó có thể tấn công anh khi anh đến quá gần nó.
Đối với tôi đã hoàn toàn rõ ràng là tôi phải làm gì. Tôi nên bước đến cách con voi độ hai mươi lăm thước, và thử phản ứng của nó. Nếu nó tấn công, tôi có thể bắn; nếu nó không để ý gì đến tôi, thì cứ để nó đó cho đến khi người quản tượng trở về là an toàn. Nhưng tôi cũng biết rằng tôi sẽ không làm điều gì như thế cả. Tôi là người bắn kém khi dùng súng trường và đất ruộng toàn bùn nhão sẽ lầy thụt ở từng bước đi. Nếu con voi tấn công và tôi bắn trượt, thì cơ hội của tôi cũng ngang bằng với một con cóc dưới xe hồ lô lăn đường. Nhưng ngay cả lúc đó tôi vẫn không suy nghĩ cho thực tế đến tính mạng của mình, mà chỉ nghĩ đến những khuôn mặt mầu vàng ở đằng sau đang chăm chú nhìn tôi. Tại khoảnh khắc đó, với cả đám đông đang theo dõi tôi, tôi không cảm thấy sợ theo nghĩa thông thường, như lẽ ra tôi phải sợ khi tôi có một mình. Một người da trắng không được tỏ ra sợ hãi trước mặt những người “bản xứ”, và như vậy, nói chung, hắn không được sợ hãi. Ý nghĩ duy nhất trong đầu tôi lúc ấy là nếu mọi sự trở nên xấu đi, thì đám hai ngàn người Miến kia sẽ thấy tôi bị đuổi, bị tóm, bị dẫm lên người và biến thành một cái xác co quắp nhe răng nhăn nhở giống như người Ấn ở trên đồi kia. Và nếu điều đó xảy ra, hoàn toàn có thể một số người đứng kia sẽ cười. Như thế sẽ không hay hớm gì. Chỉ còn một lối thoát. Tôi nhét những viên đạn vào ổ và nằm xuống đường để nhắm bắn tốt hơn. Đám đông trở nên hết sức im lặng, và một tiếng thở dài sâu, trầm, hạnh phúc như thể thoát ra từ cổ họng của vô vàn khán giả trong nhà hát khi cuối cùng màn đã được kéo lên. Khẩu súng là một sản phẩm của Đức rất đẹp có thước ngắm. Lúc đó tôi không biết rằng trong việc bắn một con voi người ta nên nhắm theo một đường tưởng tượng chạy từ lỗ tai bên này sang lỗ tai bên kia. Do đó, khi con voi đang đứng quay một bên về phía tôi, lẽ ra tôi nên nhằm thẳng vào lỗ tai nó, nhưng thực tế tôi đã nhằm vào một điểm trước đó mấy phân, nghĩ rằng óc nó nằm quá về phía trước.
Khi tôi kéo cò, tôi đã không nghe tiếng nổ hoặc cảm thấy cú giật – người ta không bao giờ nghe hoặc cảm thấy như thế khi phát đạn trúng đích – nhưng tôi đã nghe tiếng la hét vui mừng độc ác bay ra từ đám đông. Trong khoảnh khắc ngắn ngủi – thậm chí người ta có thể nghĩ ngắn hơn khoảng thời gian để viên đạn bay đến đó – một thay đổi ghê gớm, bí ẩn, đã đến với con voi. Nó không giãy giụa, cũng không đổ xuống, nhưng mọi đường nét trên cơ thể nó đã biến đổi. Nó bỗng nhiên trông teo tóp, quắt lại, già đi khủng khiếp như thể một tác động ghê sợ của viên đạn đã làm nó tê liệt mà không quật ngã nó. Cuối cùng, sau một hồi tưởng như một quãng thời gian dài lắm – tôi đoán có lẽ chỉ khoảng năm giây – nó nhẽo nhèo quị xuống. Mồm nó nhểu nước dãi. Dường như một sự lão suy kinh khủng đã giáng xuống nó. Người ta có thể tưởng nó đã hàng nghìn năm tuổi. Tôi bắn thêm phát nữa vào đúng chỗ đó. Vớí phát súng thứ hai nó chưa sụp xuống nhưng với sự chậm chạp tuyệt vọng nó đứng thẳng yếu ớt, các chân nó nhủn ra và đầu nó rũ xuống. Tôi bắn phát thứ ba. Đó là phát đứt điểm đối với nó. Người ta có thể thấy nỗi đau đớn làm cả thân mình nó giật nảy lên và đánh bật chút sức lực còn lại ra khỏi những chân của nó. Nhưng trong lúc ngã dường như có khoảnh khắc nó đứng dậy vì khi các chân sau của nó sụp xuống dưới thân hình của nó nó vươn lên như một tảng đá khổng lồ đổ nhào, thân nó vươn lên trời như một cái cây. Nó rống lên lần đầu tiên mà cũng là lần duy nhất. Rồi nó đổ xuống, bụng nó quay về phía tôi, với một tiếng ầm như làm rung cả mặt đất đến tận chỗ tôi nằm.
Tôi đứng dậy. Những người Miến đã chạy ào qua chỗ tôi, băng qua bùn. Rõ ràng con voi không bao giờ đứng lên được nữa, nhưng nó chưa chết. Nó đang thở rất nhịp nhàng bằng những hơi thở dài hồng hộc, cái đống to đùng của một bên nó phập phồng lên xuống một cách đau đớn. Mồm nó há to – tôi có thể nhìn sâu vào những hang hốc của cái cổ họng màu hồng nhạt. Tôi đợi một lúc lâu cho nó chết, nhưng hơi thở của nó không yếu đi. Cuối cùng tôi bắn hai phát đạn còn lại vào cái chỗ mà tôi nghĩ tim nó phải ở đó. Một dòng máu đặc như màu nhung đỏ tuôn ra từ đó, nhưng nó vẫn không chết. Thân hình nó thậm chí không giật lên khi các phát đạn trúng nó, hơi thở đau đớn của nó tiếp tục không ngưng nghỉ. Nó đang chết, rất chậm và trong đau đớn cùng cực, nhưng trong một thế giới cách xa tôi, nơi thậm chí không một viên đạn nào có thể phá huỷ nó hơn nữa. Tôi cảm thấy tôi phải chấm dứt cái tiếng động dễ sợ nọ. Dường như thật khủng khiếp khi thấy con vật to đùng nằm đó, không còn sức để cử động nhưng cũng chưa kiệt sức hẳn để chết, và thậm chí không thể kết liễu nó. Tôi sai người đi lấy khẩu súng nhỏ của tôi và nã đạn hết viên này đến viên khác vào tim nó và xuống cổ họng nó. Chúng hầu như không gây ra được tác động nào. Những hơi thở hổn hển tiếp tục một cách đều đặn như tiếng tích tắc của đồng hồ.
Cuối cùng tôi không chịu được nữa và và bỏ đi. Sau đó tôi nghe nói nó phải mất đến nửa giờ mới chết hẳn. Những người Miến mang dao và rổ đến thậm chí trước cả khi tôi đi, và người ta bảo tôi rằng họ đã xẻ thịt nó hầu như lóc tận xương trong buổi chiều hôm đó.
Sau này, tất nhiên, có những cuộc tranh cãi bất tận về việc bắn con voi. Người chủ voi tức giận, nhưng ông ta chỉ là một người Ấn và không làm gì được. Ngoài ra, theo luật thì tôi đã làm đúng, vì một con voi điên thì phải bị giết, giống như chó dại, nếu chủ nó không kiểm soát được nó. Trong số người Âu thì ý kiến chia rẽ. Những người già hơn nói tôi đã làm đúng, những người trẻ hơn nói đó là một điều tệ hại đáng xấu hổ khi bắn một con voi vì một người cu li bị giết, bởi vì một con voi còn đáng giá hơn một thằng cu li Coringhee chết tiệt. Và sau đó tôi hết sức vui mừng, vì người cu li đã bị giết khiến tôi trở nên đúng trước pháp luật và nó cho tôi cái cớ đủ để bắn con voi. Tôi luôn băn khoăn tự hỏi liệu có bất kỳ ai khác hiểu được rằng tôi đã làm việc đó chỉ để tránh khỏi bị coi là một thằng ngốc hay không.
Bản tiếng Việt: Hiếu Tân
Tam Đảo, tháng 7, 2012
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét