Thứ Hai, 23 tháng 7, 2012

Ngôi nhà ma ám


Virginia Woolf



Adeline Virginia Woolf ( 25/1/1882 – 28/3/1941): nhà văn Anh, được coi là một trong những gương mặt nổi bật nhất của trào lưu hiện đại chủ nghĩa trong văn học thế kỷ 20.
Trong thời gian giữa hai cuộc đại chiến, Woolf là một gương mặt quan trọng nhất trong giới văn học London và là thành viên Nhóm Bloomsbury. Những tác phẩm nổi tiếng nhất của bà gồm có các cuốn tiểu thuyết  Bà Dalloway (1925), Tới Ngọn Hải đăng (1927) và Orlando (1928), và cuốn tiểu luận dài Một căn phòng riêng (1929), với  phát biểu nổi tiếng "Một phụ nữ muốn viết tiểu thuyết thì phải có tiền và một căn phòng của riêng mình."


Ngôi nhà ma ám

HIẾU TÂN dịch

Dù thức dậy vào bất cứ giờ nào thì cũng vẫn cứ có một cánh cửa đang đóng lại. Họ đi từ phòng này sang phòng khác,  tay trong tay, nâng chỗ này, mở chỗ kia, chắc chắn là một cặp vợ chồng ma.
“Chúng mình bỏ nó ở đây,” nàng nói. Và chàng thêm. “Ô, nhưng đồ dùng đây này” “Nó ở trên gác” nàng lầm rầm. “Và ở trong vườn,” chàng thì thào. “Khẽ thôi,” cả hai cùng nói, “kẻo làm chúng nó thức giấc.”
Nhưng các vị không làm chúng tôi thức dậy đâu.
Ồ, không. “Họ đang đi lục lọi tìm tòi cái đó, họ đang kéo bức rèm,” người ta có thể nói, và đọc như thế trong một hai trang sách. “Bây giờ họ đã tìm thấy nó rồi” người ta nói có vẻ chắc chắn, dừng ngọn bút chì bên lề sách. Rồi sau đó, như thể chán đọc, người ta có thể đứng lên và nhìn, cả ngôi nhà trống trải, những cánh cửa để mở, chỉ có những con chim câu bằng gỗ đang gù gù một cách hài lòng và tiếng vo vo của chiếc máy suốt lúa vang lên từ dưới dãy nhà kho. “Ta đến đây để làm gì? Ta muốn tìm cái gì ở đây?” Đôi tay tôi trống rỗng. “Vậy có lẽ nó ở trên gác chăng?” Những quả táo ở trên gác xép. Và rồi lại xuống, khu vườn vẫn yên tĩnh như mọi khi, chỉ có quyển sách đã rơi tuột xuống cỏ.
Nhưng họ đã tìm thấy nó trong phòng khách. Người ta không thể nào trông thấy họ. Những ô kính cửa sổ in hình những quả táo, những bông hồng, toàn bộ lá vẫn xanh trên cửa kính. Nếu họ đi vào phòng khách, thì quả táo chỉ quay mặt vàng của nó ra. Thế nhưng, một lát sau, nếu cửa mở ra, trải ra trên sàn, treo trên tường, thòng xuống từ trên trần nhà, là cái gì đấy? Hai bàn tay tôi trống rỗng. Bóng một con chim hét vắt ngang tấm thảm, từ những đáy giếng sâu thẳm của im lặng con chim câu gỗ kéo lên những bong bóng âm thanh của nó. “Bình an, bình an, bình an” nhịp mạch của ngôi nhà đập êm êm. “Kho báu được chôn, căn phòng…” mạch đập ngưng giữa chừng. Ôi, đó là kho báu được chôn đấy ư?
Một lát sau ánh sáng tắt dần. Vậy ở ngoài vườn chăng? Nhưng cây cối chăng bóng tối cho một tia sáng mặt trời lang thang. Thật tinh tế, thật hiếm hoi, nhẹ nhàng chìm xuống bên dưới bề mặt, tia sáng tôi tìm luôn luôn cháy sau tấm kính. Cái chết là tấm kính ấy; cái chết ngăn cách giữa chúng tôi, đến với người đàn bà trước, cách đây hàng trăm năm, bỏ lại ngôi nhà này, niêm kín các cửa sổ; những căn phòng tối sầm lại. Ông bỏ nó lại đó, để bà ở lại đó, đi lên phương Bắc, đi sang phương Đông, nhìn những ngôi sao quay trên bầu trời phương Nam; đi tìm ngôi nhà, thấy nó thu mình bên dưới Đồi cỏ thấp. “Bình an, bình an, bình an,” mạch của ngôi nhà vui vẻ đập. “Kho báu này là của các người.”
Gió rít trên đại lộ. Cây cối ngả nghiêng và uốn cong theo chiều này chiều khác. Ánh trăng tung toé và tràn ra man dại trong mưa. Nhưng ánh đèn rọi thẳng từ cửa sổ xuống. Những ngọn nến cháy cứng đơ và lặng lẽ. Đi lang thang khắp ngôi nhà, mở các cửa sổ, thì thầm để khỏi làm chúng tôi thức giấc, cặp vợ chồng ma này đi tìm niềm vui của họ.
“Chúng ta đã ngủ ở đây,” bóng ma đàn bà nói. Và bóng ma đàn ông bổ sung “Hôn nhau vô số kể” “Thức dậy vào buổi sáng..” “Bạc giữa các cây…” “Trên gác..” “Trong vườn..” “Khi hè về…” “Khi mùa đông tuyết rơi…” Những cách cửa đóng lại từ xa xăm, gõ êm êm như tiếng đập trái tim.
Hai bóng ma đến gần hơn, dừng lại ở lối vào cửa. Gió rơi, mưa tạt bạc vào cửa kính. Mắt chúng tôi tối sầm, chúng tôi không nghe thấy tiếng bước chân ngay bên cạnh chúng tôi; chúng tôi không thấy bóng người đàn bà trải chiếc áo choàng không tay ma quái của bà ta. Bóng người đàn ông lấy tay che đèn. “Nhìn này,” ông ta nói trong hơi thở. “Nghe chừng bọn nó đang ngủ. Tình yêu đọng trên môi chúng.”
Hai bóng ma cúi xuống, tay họ giơ những chiếc đèn bạc soi trên người chúng tôi, trông họ dài ngoằng và sâu thẳm. Họ ngưng rất lâu. Gió thổi thốc mạnh, ngọn lửa quằn đi. Những tia sáng hoang dại của ánh trăng xuyên qua cả sàn nhà và tường và gặp những gương mặt đang cúi xuống, làm cho chúng loang lổ; những gương mặt đăm chiêu, những gương mặt đi tìm kiếm những người ngủ và tìm xem niềm vui ẩn giấu của họ.
“Bình an, bình an, bình an” trái tim của ngôi nhà đập một cách tự hào. “Những năm dài…” người đàn ông thở dài. “Rồi em lại tìm thấy anh” “Đây” nàng thầm thì “đang ngủ; trong vườn ngồi đọc sách; cười; những quả táo lăn trên gác xép. Nơi đây chúng ta đã để lại kho báu của chúng ta…” Họ cúi xuống, ánh sáng của họ nâng những mi mắt của tôi lên. “Bình an, bình an, bình an” trái tim của ngôi nhà đập mạnh mẽ. Tôi thức dậy, kêu lên “Ôi, kho báu được chôn cất của các người đây sao? Ánh sáng ở trong tim.”

Tam Đảo, tháng 7, 2012

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét