Bình luận văn chương
HIẾU TÂN dịch
Tôi hy vọng thế. Có Trời biết, những sự bất công tàn ác mà
Dickens đã lên án với sự phẫn nộ đầy nhiệt tâm và chỉ trích không thương tiếc
vẫn còn nóng hổi trong cuộc sống của chúng ta ngày nay, chứ không phải bị ướp
xác đằng sau những tủ kính trưng bày văn học thời Victoria. Nỗi đau khổ của
cảnh nghèo túng vẫn là nỗi nhục cho sự tự thỏa mãn của chúng ta. Ta vẫn bắt gặp
Jo, người quét đường trong mọi trạm xe bus nhếch nhác vào lúc nửa đêm. Những
Tite Barnacle vẫn tràn ngập những Văn phòng Vòng vo Tam quốc, sẵn sàng ngồi
ngửa cổ ngáp dài trước những tình huống khó khăn tuyệt vọng. Những kẻ giàu sang
hợm hĩnh vẫn chẳng hề biết xấu hổ phô phang những trò bịp ghê tởm của chúng
trước Trách nhiệm với sự Bần cùng. Những Bounderby với những bài thuyết giáo
đạo đức của chúng về Tự Lập vẫn còn nhan nhản. Chúng ta có những cuộc bầu cử Eatanswill
của chúng ta làm trò cười lố bịch với trận mưa tiền. Sương mù dày đặc như trong
mở đầu kỳ bí của Ngôi nhà hoang, vẫn
còn che phủ các tòa án nơi những luật sư vì lợi nhắm mắt bất cần đạo lý lao vào
cơn nghiền kiện tụng.
Hơn nữa, bao nhiêu người trong chúng ta đã đọc ông hết quyển
này đến quyển khác, từ Đường Bồ câu đến máy chém? Hay chúng ta chỉ xài Dickens
như những bánh kẹo ngọt ngào vào dịp Giáng sinh? Tất nhiên Dickens một nhà
quảng cáo tuyệt chiêu và người tiên phong trong tiếp thị đại chúng (ông đã mơ
đến những nguyệt báo thu hút 100.000 độc giả mỗi tháng cho các cuốn đăng nhiều
kỳ Chuyện hai thành phố và Quanh năm ngày tháng của ông) chắc sẽ
không có vấn đề gì với khía cạnh giải trí. Nhưng không, tôi cho rằng phải trả
giá bằng việc thấy cơn mê say cuồng dại mất hút vào trong thứ văn chương tầm
tầm giống như những chiếc bánh ngọt lễ Giáng sinh.
Khẩn cấp nhất là,
con em chúng ta có còn đọc Dickens nữa không? Liệu các trường học có đưa Những hy vọng lớn lao hay Dorrit bé bỏng vào hành trình của học
sinh và khai tâm cho chúng bằng niềm mê thích? Con em chúng ta có nhận Dickens
như chúng nhận Chạng vạng hay Harry Potter không? Trong số những
người đương thời vĩ đại của Dickens—Tolstoy hay Flaubert—không có ai đã khám
phá tâm hồn sôi động của trẻ em một cách sâu xa như ông đã làm. Nhưng rồi không
có ai trong số họ phải chịu nỗi thống khổ như sự bất an của Dickens khi người
cha Micawber đi tù vì nợ, và bản thân cậu là một đứa trẻ chôn vùi tuổi thơ
trong nhà máy sản xuất xi đánh giày ở Strand.
Chính cha đẻ tôi là một kiểu Micawber. Hoàn toàn tự học, ông
đã dùng toàn bộ số tiền để dành cho chuyến đi nghỉ hè ở bờ biển để mua trọn bộ Người bán hàng rong và Đại sảnh (Chapman
and Hall) của Dickens từ một người bán hàng trên xe ngựa trên con đường đến Ga
Waterloo. Mỗi tối thứ Bẩy ông đọc to cho
cả nhà nghe, đóng tất cả các vai. Thỉnh thoảng, khi tôi đã lớn lên một chút,
ông cho tôi đóng vai Davy, hay Oliver, hay Jo. Tuy nhiên chính Pip là nhân vật
luôn luôn chiếm được cảm tình của tôi còn Magwitch thì hiện ra từ những đầm lầy
Kentish và đe dọa cào rách tim gan tôi nếu tôi không đưa đồ ăn cho gã, và hồn
ma Cô Havisham cũng ghê rợn như vậy dẫn Pip đến chiếc bánh cưới đầy nhện của
cô.
Chúng ta đã chê trách nhiều Twitter và những thứ văn bản cộc
lốc trên mạng làm hư hỏng tiếng Anh. Đọc Dickens, bây giờ hơn bao giờ hết, là
trải nghiệm điều ngược lại: bị cuốn hút vào cái thừa mứa bề bộn của ngôn từ,
vào cái ngôn ngữ tràn trề ào ạt của đời sống. Đôi khi thứ ngôn ngữ ấy lôi chúng
ta đến những nơi mà lẽ ra ta không nên đến. Người
bạn chung của chúng tôi mở đầu với cảnh những người nhặt rác bên sông Thams
đi kiếm những xác người chết trôi để xoay ít tiền lẻ. Mặc dầu các nhà chính trị
có thể lên án lòng trắc ẩn đầy tính nhân văn của Dickens là có tính cách xã hội
chủ nghĩa, thật ra ông không có chương trình nào để cải tạo cái ác của thời đại
ông ngoài niềm khao khát mãnh liệt sự tử tế lương thiện. Từ cái bản năng đơn
giản ấy ông đã làm nên những kiệt tác bất hủ.
Simon Schama là giáo sư lịch sử và lịch sử nghệ thuật
tại Đại học Columbia. Ông là nhà viết tiểu luận và phê bình cho The New York
Times từ năm 1994; những tác phẩm phê bình nghệ thuật của ông đã đoạt Giải
thưởng Quốc gia về Tạp chí năm 1996
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét