Chủ nghĩa xã hội : nguyên lý và quan điểm
GEORGE BERNARD SHAW
(Socialism : Principles and
Outlook)
HIẾU TÂN dịch
Chủ nghĩa xã hội, rút gọn đến
những khẩu hiệu đơn giản nhất và biểu hiện thực tiễn của nó, có nghĩa là xoá bỏ
hoàn toàn chế độ tư hữu tài sản bằng cách chuyển nó
thành công hữu, và phân phối thu nhập bình quân không phân biệt trong toàn thể
dân chúng. Như vậy nó đi ngược lại chính sách của Chủ nghiã tư bản là thiết lập sở hữu tư nhân hay sở hữu “thực”đến
mức tối đa có thể được và để cho phân phối tự nó lo liệu lấy. Sự thay đổi trên
kéo theo một sự lật ngược về mặt đạo đức.Trong chủ nghĩa xã hội, tư hữu tài sản
là điều đáng nguyền rủa và phân phôi bình quân là điều quan tâm đầu tiên. Trong
Chủ nghiã tư bản tư hữu tài sản là điều cốt yếu (cardinal) và sự phân phối được
để mặc cho các hợp đồng tự do và các quyền lợi ích kỷ tự quyết định lấy trên cơ
sở -tư hữu tài sản-đó, cho dù nó có kỳ
quái đến đâu.
Chủ nghĩa xã hội chưa hề xuất
hiện trong những giai đoạn đầu tiên của chủ nghĩa tư bản chẳng hạn trong số
những người tiên phong của văn minh trong một nước vẫn còn nhiều đât đai cho
những kẻ đến sau chiếm đoạt làm của riêng. Sự phân phối dưới những điều kiện ấy
không phải là sự đi trệch xa khỏi lẽ công bằng sơ đẳng, mà là sự phân cực hợp
lẽ, do chỗ một số người có được những nghị lực phi thường hoặc khả năng đặc
biệt ở về một cực, và những người khác với những khiếm khuyết rõ rệt về trí lực
hoặc do vận hạn rủi ro, ở cực bên kia. Tuy nhiên giai đoạn này không kéo dài
dưới những điều kiện sống hiện đại. Tất cả những chỗ thuận lợi chẳng mấy chốc
đã bị chiếm hết làm của riêng , và những người đến sau ( do di dân nhập cư hoặc
do phát triển dân số tự nhiên ) không còn thấy đất đai thích hợp để mà chiếm ,
và buộc phải sống bằng cách thuê đất của
chủ đất, biến bọn chủ này thành giai cấp địa chủ hưởng huê lợi từ nguồn
thu không lao động, nguồn thu này tăng lên với đà tăng của dân số , cho đến
khi giai cấp địa chủ trở thành giai cấp cho vay nợ lãi hoặc giai cấp tư sản,
(tư bản là cái tên người ta gán cho tiền nhàn rỗi). Các nguồn đất cho thuê và
tiền nhàn rỗi chỉ có cho những ai được giáo dục đầy đủ để giữ các tài khoản và
điều hành các doanh nghiệp, phần lớn số này nảy ra từ giai cấp những người có của và con cái họ.
Những người còn lại phải đem thân làm thuê như những công nhân hoặc thợ thủ
công, lĩnh lương ngày hoặc tuần , từ đó sinh ra sự phân chia xã hội một cách thô
sơ thành giai cấp thượng lưu hay giai cấp có của(hữu sản), giai cấp trung lưu
hay hàng ngũ điều hành và quản trị, và giai cấp vô sản làm thuê. Trong sự phân
chia này, giai cấp hữu sản chỉ thuần túy là bọn người ăn bám, có hưởng thụ mà
không có làm ra. Do sự hoạt động tàn nhẫn của các qui luật kinh tế , các giai
cấp này đã giầu lại ngày càng giầu thêm theo sự phát triển của dân số, những
nhu cầu về sự hầu hạ trong nhà và sự xa
xỉ của nó tạo ra cho giai cấp trung lưu và giai cấp vô sản cả những ngành nghề ăn
bám, không chỉ rút ra từ sản xuất công nghiệp một lượng lớn nhân công mà còn củng cố nó về mặt chính trị bằng các
tổ chức mạnh mẽ của công nhân và viên chức, những kẻ sẽ bầu cho chủ của mình vì
họ lệ thuộc vào chính nguồn thu nhập không lao động của chủ cũng như lệ thuộc
vào giới chủ.
Trong khi đó sự chạy đua ăn chơi
tiêu dùng của giới chủ dẫn đến tình trạng sản xuất ra mười sản phẩm chỉ
để thỏa mãn nhu cầu của một, dẫn đến nạn khủng hoảng thảm khốc của sản
xuất thừa, luân phiên với tình trạng ế ẩm, làm cho ngay cả việc bóc lột giai
cấp vô sản cũng không thể được nữa.
Khi tiền lương giảm tới mức không thể tiết
kiệm đươc nữa, thì trong những thời kỳ suy thoái người thất nghiệp không còn
cách nào sống sót ngoài việc trông chờ
vào cứu tế.
Chính trong thời kỳ này của sự phát triển của chủ nghĩa tư bản mà nước
Anh đạt đến vào thế kỷ 19, chủ nghĩa xã hội đã trỗi dậy như một sự nổi loạn
chống lại tình trạng phân phối của cải đã không còn hợp đạo lý nữa.
Khối tài sản khổng lồ lại thuộc về tầng lớp không sản xuất và đôi khi nhân cách rõ ràng
không xứng đáng , còn những kẻ làm quần quật như khổ sai từ thời trẻ thơ cho
đến hết đời, thì vẫn cứ phải vắt kiệt sức lực để sống trong cảnh khốn cùng,
chốn trú thân cho tuổi già chỉ là nhà tế bần công cộng , được cố ý làm ra một
cách đáng ghê tởm để ngăn
cản người vô sản khỏi dùng đến nó chừng nào
họ còn đủ sức lực cho những công việc được trả đồng lương thảm hại trong thị
trường lao động. Sự bất công đã trở nên khủng khiếp: người lao động cực nhọc
được trả 4 hay 5 shilling một ngày ( mức lương sau chiến tranh) trong khi thấy
ngay trước mắt những kẻ kiếm vài ngàn một ngày mà chẳng phải làm gì hết, thậm
chí còn coi khinh lao động. Sự chênh lệch đó
trong thu nhập không có cách nào giải thích được bằng những khác biệt trong
đóng góp của con người. Chính phủ buộc phải can thiệp và điều chỉnh thu nhập
đến một mức nào đó, bằng cách thu lại một tỷ lệ nhất đinh, ngày càng tăng,
trong thu nhập của giới hữu sản (thuế thu nhập, thuế siêu lợi tức, thuế bất
động sản) để thực hiện bảo hiểm thất nghiệp, và mở rộng dịch vụ công cộng , bên
cạnh việc bảo vệ giai cấp vô sản khỏi sự áp bức thậm tệ bằng cách soạn thảo các
bộ luật doanh nghiệp để kiểm soát các nhà máy công sở khỏi bàn tay cuả giới
chủ, làm cho giới chủ không thể chỉ hoàn
toàn ích kỷ bắt tăng giờ làm quá mức
không đếm xỉa gì đến sức khỏe, an toàn thân thể và phúc lợi tinh thần của người
làm thuê.
Việc thu lại lợi tức cá nhân vì mục đích công
cộng mà không được đòi hỏi bất kỳ sự bồi
thường nào, bây giờ đang tiến hành ở một qui mô mà các bộ trưởng thời nữ hoàng
Victoria khó tưởng tượng nổi , đã phá vỡ tính nguyên vẹn của chế độ sở hữu tư
nhân và quyền thừa kế; và nguồn tư bản thu được đã được chính phủ trung ương và
các thành phố tự trị đưa vào các ngành công nghiệp công cộng , trái ngược với
nhiều thất bại và tốn kém của các dự án tư bản chủ nghĩa , đã làm rung chuyển
điều mê tín rằng quản lý thương nghiệp tư nhân luôn hiệu quả hơn và ít tham
nhũng hơn quản lý công cộng. Đặc biệt, mưu đồ của Anh dựa vào tư nhân để trang
bị vũ khí cho quân đội trong chiến tranh 1914-1918 đã gần như dẫn đến thất bại,
còn sự thay thế nó bằng các nhà máy công hữu lại thành công khá ấn tuợng, và
tiêu thụ của khu vực tư nhân sau chiến tranh, sau một hồi thịnh vượng bùng phát
ngắn ngủi và mơ hồ, đã rơi vào thảm cảnh suy thoái, đến nỗi niềm tin vào tính
hiệu quả tương đối của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản đã bị lật ngược
nhanh chóng, chủ nghĩa tư bản lâm vào thế thủ và không còn công chúng ủng hộ,
trong khi sự tịch thu tài sản tư hữu , doanh nghiệp công cộng và quốc hữu hoá
các ngành công nghiệp lớn ngày càng được hậu thuẫn vững chắc trong dân chúng,
và cả từ trong đến ngoài nghị viện.
Sự thay đổi này của công luận đã
thâm nhập sâu sắc vào tầng lớp trung lưu, vì địa vị của người quản lý bình
thường có chiều đi xuống. Trong thế kỷ 19 anh ta được coi như người chủ trong
công nghiệp , và sau Cải cách năm 1832, còn làm chủ cả tình hình chính trị. Anh
ta giao dịch trực tiếp và thậm chí có phần
lấn át giai cấp hữu sản, kẻ cho anh ta thuê đất hay vay vốn trực tiếp
hoặc qua đại lý, những đại lý này là đày
tớ chứ không phải là chủ của anh ta. Nhưng rồi yêu cầu về vốn ban đầu để khởi
nghiệp và phát triển những dự án công nghiệp hiện đại đã tăng nhanh đến mức vượt tầm với của một người
quản lý bình thường. Việc tích luỹ tiền vốn đã trở thành một ngành kinh doanh
đặc biệt, do những nhà tài trợ và những nhà tài chính chuyên nghiệp tiến hành.
Những chuyên gia này, dầu không có liên hệ trực tiếp với công nghiệp, đã trở
thành không thể thiếu được, đến nỗi ngày nay họ đã thực sự là chủ của những nhà
quản lý bình thường. Trong khi đó thì sự lớn nhanh của các công ty liên doanh
đã thay thế người quản lý bằng nhân viên-điều hành , và như vậy đã biến tầng
lớp trung lưu độc lập trước đây thành vô sản, và về phương diện chính trị, đẩy họ sang phe tả .
Khoản tiền vốn cần thiết để đầu tư ban đầu và
mở rộng công nghiệp tăng đến đâu thì đòi hởi năng lực quản lý tăng lên đến đó,
điều này thì nhà tài chính chịu không đáp ứng được, trên thực tế họ đã làm chảy
máu chất xám của tầng lớp trung lưu trong công nghiệp và hấp thụ nó vào
chuyên môn riêng của họ. Vấn đề là đã tới lúc trong việc điều hành công nghiệp
phải thay thế những doanh nhân cổ hủ bằng hàng ngũ văn phòng có trình độ và
được đào tạo chuyên nghiệp, và vì chủ nghĩa tư bản không cung cấp đội ngũ văn
phòng như thế, các công ty thường gặp khó khăn khi lớn lên bằng cách hợp nhất,
và như vậy gạt bỏ mất năng lực của các nhà quản lý vốn quen điều hành các doanh
nghiệp đơn lẻ. Khó khăn này càng tăng lên vì yếu tố cha truyền con nối trong
doanh nghiệp.
Một ông chủ có thể trao quyền
thừa kế kiểm soát một doanh nghiệp liên
quan đến sinh kế của vài ngàn công nhân, nó đòi hỏi người lãnh đạo phải có năng
lực và nghị lực bẩm sinh lớn, hoặc trình độ chính trị và khoa học thích đáng,
cho người con trưởng của ông ta mà không cần thử thách nào để chứng tỏ năng lực
của anh này, trong khi nếu ông ta làm đơn xin cho cậu con thứ làm bác sĩ hoặc
sĩ quan hải quân, chắc chắn chính phủ sẽ thông báo một cách cương quyết rằng chỉ sau khi đã qua những khoá đào tạo
dài hạn và kỹ lưỡng và đạt được những
văn bằng chính thức thì cậu con của ông ta mới được trao những trách nhiệm như
thế. Trong trường hợp đó phần lớn các doanh nghiệp buộc phải lựa chọn giữa các nhà quản lý tầm tầm không thực sự hiểu
rõ công việc của mình , với những nhà tài chính, chưa bao giờ bước chân vào nhà
máy hay hầm mỏ, không biết một nghiệp vụ nào ngoài nghiệp vụ huy động tiền
để sử dụng như đồng vốn, đẩy nó vào cuộc phiêu lưu của doanh nghiệp
với mọi bất trắc, kết quả thường là liều lĩnh và ngu dại đầu tư quá mức dẫn đến
phá sản ( trá hình là cải tổ ) điều đó cho thấy cái dốt kỹ thuật và mù kinh tế
đáng kinh ngạc của nhiều người có tiếng là giám đốc những tổ hợp công
nghiệp lớn, kẻ dám rút những khoản tiền khổng lồ để thù lao cho những khả năng
huyền thoại chỉ tồn taị trong trí tưởng tượng của các cổ đông .
II
Tất cả những cái đó chắn chắn
huỷ hoại bộ mặt đạo đức của chủ nghĩa tư bản. Việc mất lòng tin của dân
chúng vào chủ nghĩa tư bản đã đi xa hơn
việc chủ nghĩa xã hội giành được lòng tin. Hậu quả là cuối phần tư đầu tiên của
thế kỷ 20 tình hình chính trị ở châu Âu rối loạn và đầy đe doạ ; tất cả các
đảng phái chính trị đều chẩn đoán bệnh trạng xã hội là nguy kịch, phần lớn các
đảng ấy đề nghị những phương án điều trị khốc liệt. Các chính phủ quốc gia, dù
cổ xuý cho khẩu hiệu đảng phái nào, đêàu
thấy mình bị kiểm soát bởi những nhà tài phiệt
theo đuổi những khoản vay nợ lãi quốc tế kếch xù mà không nhằm mục đích công cộng nào cả,
không có trình độ chuyên môn nào ngoài việc
quen dùng những lề thói thô thiển
hoàn toàn không thích hợp với công việc quốc gia, bởi vì nó chỉ dính với
sở chứng khoán và các dạng giao dịch ngân hàng của tư bản và tín dụng . Những
cái này, mặc dù có hiệu lực ở thị trường tiền tệ khi tiến hành trao đổi lợi tức
tương lai cho tiền nhàn rỗi của thiểu số
nhỏ những kẻ có thưà tiền để nhảy vào cuộc chơi, sẽ biến mất dưới sức ép của
bất kỳ thủ đoạn chính trị thông thường nào-lấy một ví dụ dễ hiểu - như đánh thuế trên tiền vốn. Việc đánh thuế như
vậy sẽ tạo ra một thị trường tiền tệ trong đó chỉ có người bán mà chẳng có kẻ
mua, nâng lãi suất ngân hàng lên đến vô hạn, phá vỡ ngân hàng và làm ngưng trệ
sản xuất bằng cách đưa vào ngân khố quốc
gia toàn bộ lượng tiền mặt lẽ ra để trả lương. Đáng buồn là các phe phái vô sản
trong nghị viện cũng chẳng hiểu điều này khá hơn gì các đối thủ tư sản của họ.
Họ la hét về thuế đánh trên tiền vốn;
còn các đại biểu tư sản thay vì thẳng thắn thừa nhận rằng tư bản (tiền vốn) như
họ hình dung chỉ là một bóng ma, và rằng cái giả thiết một người có thu nhập
mỗi năm 5 bảng anh tuyên bố với nhà nứơc rằng anh ta có sẵn tài sản 100 bảng
bằng tiền mặt, mặc dù trong sở giao dịch chứng khóan thì một nhà đầu tư hay một
kẻ ăn tiêu hoang tòang cũng như nhau cả, cái giả thiết ấy nếu đem áp dụng cho
phạm vi quốc gia thì chỉ thuần túy là hư cấu mà thôi; bảo vệ một cách ngu ngốc
nguồn tài chính tửơng tựơng như thể nó tồn tại thật, như vậy là đánh lừ a giai câp vô sản thay vì giáo dục
nó.
Các nhà tài chính có những ảo
tửơng hão huyền của họ, đó là họ có thể làm cho nguồn tư bản của đất nứơc tăng
gấp đôi, nhờ đó kích thính mạnh mẽ sự phát triển của công nghiệp và sản
xuất, bằng cách lạm phát tiền tệ đến khi giá cả tăng gấp đôi, một mặt hàng
trứơc đây giá 50 bảng thì bây giờ lên 100 bảng, một biện pháp chẳng có lợi gì
cho đất nứơc nhưng nó giúp cho tất ca ûcác con nợ lừa các chủ nợ, và tất cả các
hãng bảo hiểm, các quỹ hưu trí giảm đi một nửa số tiền mà lẽ ra nó phải thanh
tóan. Lịch sử lạm phátcủa châu Âu từ chiến tranh 1914-18 với cái kết quả bần
cùng hoá những người hưu trí và các sĩ quan ăn lương cố định, buộc giai cấp
trung lưu nhận ra các hậu quả đ áng sợ của một nền tài chính buông thả và một
nền công nghiệp hướng tới những “nhà kinh doanh thực tiễn”, thô vụng, không yêu
nước và ngu dốt về chính trị .
Trong khi đó sự
hấp dẫn của tư bản dẫn tới việc tranh giành chiếm hữu và khai thác các lãnh thổ
bên ngoài( các “vị trí dưới mặt trời” ) tạo ra những cuộc chiến tranh ở
qui mô không chỉ đe doạ nền văn minh mà cả sự tồn tại của con người, vì trước
đây những trận địa chiến giữa hai đội quân thì phụ nữ còn được yên, còn bây giờ, những cuộc tấn
công từ trên không vào các mục tiêu dưới đất thì cả đàn ông và phụ nữ đều bị
bắn giết bừa bãi, đến mức không lôi được xác chết ra ngoài. Phản ứng cảm xúc
sau những cụộc chiến tranh như thế mang tích chất vỡ mộng sâu sắc, làm cho
những cuộc nổi loạn về tinh thần chống tư bản ngày càng tăng nhanh , mà , rủi
thay không có một quan niệm mới nào khả dĩ thay thế. Giai cấp vô sản làm mình làm mẩy một cách yếm
thế , không còn tin vào sự trong trắng vô tư của những kẻ kêu gọi họ phải thắt
lưng buộc bụng , cố gắng hy sinh nhiều nữa để hàn gắn vết thương chiến tranh.
Tính chính thống về mặt đạo đức của tư hưũ tài sản bị bẻ gãy, và chính sự sung
công thu-nhập không-lao-động, sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản thành thị
và quốc gia, những khoản trợ cấp lương mới mà các chính phủ buộc phải nhả ra do
bị uy hiếp bởi thảm hoạ bãi công đình công trong phạm vi toàn quốc, đã xui
khiến giai cấp vô sản tiếp tục vận hành hệ thống tư bản chủ nghĩa, việc cưỡng
bức lao động trước đây vốn là nền tảng của CNTB, (làm việc, hay chết đói!) thì
nay đã bị vứt bỏ không thương tiếc. Công nhân từ chối làm việc bây giờ có thể
sống được nhờ cứu tế , (tức là suy cho
cùng, nhờ tước đoạt thu-nhập không-lao-động) là điều trước đây không thể nào có
được.
Dân chủ , hay
quyền phổ thông đầu phiếu, không tạo ra được giải pháp có tính xây dựng cho các
vấn đề xã hội, giáo dục cưỡng bức cũng không giúp ích gì nhiều. Những hy vọng
vô bờ bến dựa trên việc mở rộng liên tục quyền bầu cử, lên đến cực điểm trong
phong trào giải phóng phụ nữ. Những hy vọng ấy đã thành thất vọng,vì cử tri,
nam hay nữ, vốn không được giáo dục và đào tạo về chính trị , đã (a) không nắm
được các biện pháp xây dựng ,(b) ghét hệ
thống thuế như hiện hành (c) không muốn bị kiểm soát gì cả và (d) kinh sợ và phẫn
nộ với bất kỳ sự can thiệp nào của chính quyền, coi như xâm
phạm vào tự do cá nhân của họ. Giáo dục cưỡng bức, chẳng những không soi sáng
cho họ, lại còn khắc sâu tính thiêng liêng bất khả xâm phạm của tư hữu tài sản,
và bêu diếu phân phối bởi nhà nước như tội ác và thảm hoạ và bằng cách đó liên
tục làm mới các thành kiến xã hội cũ chống lại chủ nghĩa xã hội, làm cho giáo
dục quốc dân không thể in sâu một cách giáo điều như nguyên lý đầu tiên tính bất
công của tư hữu tài sản, tầm quan trọng tột bậc của bình quân thu nhập vàtính
chất tội ác của sự lười biếng.
Hậu quả là, mặc dầu
thất vọng về chủ nghĩa tư bản,và mối đe doạ ngày càng lớn về thương mại suy sụp
và tiền tệ suy yếu, các phái đối lập trong nghị trường dân chủ của chúng ta,
đối mặt với sự thể là trong tay họ chỉ có độc một phép chữa trị duy nhất là
tăng thuế , cưỡng bức cải tổ hoặc quốc hữu hoá ngay các doanh nghiệp bị phá sản,
lao động công ich cuỡng bức đối với mọi
tầng lớp nhân dân trong dân sự cũng như
quân đội, đã không dám đương đầu với các cử tri của mình với những đề xuất như
thế, vì biết rằng chỉ nội một việc tăng thuế cũng đủ làm mất ghế. Để trốn tránh trách nhiệm, họ trông mong vào
việc ép các thiết chế quốc hội bằng đảo chính và độc tài, như ở Italia, Nga và
Tây ban nha. Nỗi thất vọng này của các thiết chế quốc hội là điều mới lạ ở thế
kỷ 20, nhưng nó đã thất bại trong việc cảnh tỉnh các cử tri của nền dân chủ
rằng sau cuộc đâu tranh lâu dài để giành được quyền kiểm soát chính quyền , họ
đã không có cả kiến thức lẫn ý chí để thực thi việc kiểm soát đó, rằng trên
thực tế họ chỉ sử dụng quyền bầu cử để kiểm soát các chính phủ địa phương,
trong khi nền văn minh đang phá tung các đê chắn của quốc gia ở tất cả mọi
hướng.
Một kiểu kháng cự
có kết quả hơn đối với tư hữu là tổ chức của giai cấp vô sản thành các công
đoàn, để chống lại hậu quả của việc tăng dân số trong việc hạ giá sức lao động
và tăng thời gian cũng như cường độ nặng nhọc của nó. Nhưng chủ nghĩa công đoàn bản thân nó lại là một
phương diện của chủ nghĩa tư bản, bởi vì nó áp
dụng cho lao động chẳng khác nào cho hàng hoá cái nguyên tắc trong thị trường
là bán sao cho được giá nhất, và với một giá cả nào đó thì cung cấp càng ít
càng tốt, cái nguyên tắc trước đây chỉ
áp dụng cho đất đai tiền vốn và thương phẩm. Phương pháp của nó là phương pháp nộâi chiến giữa lao động và
tư bản, trong đó các trận chiến đấu quyết định nhất là những cuộc đình công và
bãi công với các đoạn nghỉ xen kẽ bằng những điều chỉnh nhỏ của thuật ngoại
giao công nghiệp.Chủ nghĩa công đoàn nay vẫn duy trì một đảng Lao động (Công
đảng) trong Nghị viện Anh. Phần đông các đảng viên quần chúng và lãnh đạo là xã
hội chủ nghĩa về mặt lý thuyết, do đó luôn luôn có chương trình bằng giấy về
quốc hữu hoá các ngành công nghiệp, ngân hàng, đánh thuế vào thu nhập không lao
động cho đến sạch, và bao nhiêu rủiro bất ngờ nữa trong quá độ chuyển sang
CNXH, nhưng công đoàn đã không vận dụng sức mạnh nhằm bất cứ mục tiêu nào khác
hơn là CNTB với việc giành phần hơn (phần sư tử) cho lao động, và từ chối một
cách kiến quyết lao động công ích bắt buộc, vì như thế tước đi mất quyền bãi công của nó .Trong
chuyện này nó được sự ủng hộ hết lòng của các đảng tư sản, các đảng này mặc dầu
rất muốn đặt bãi công ra ngoài vòng pháp luật và áp đặt lao động công ích cưỡng
bức cho giai cấp vô sản, nhưng không muốn trả giá bằng việc từ bỏ quyền ăn
không ngồi rồi của chính nó. Lao động công ích cưỡng bức là thiết yếu trong chủ
nghĩa xã hội , nhưng như vậy là vấn đề này đã bị bãi bỏ bởi các tổ chức lao
động cũng như bởi tư bản.
Đó là một thực tế
lịch sử ,tái diễn nhiều đến mức có thể gọi là một qui luật kinh tế , rằng chủ
nghĩa tư bản, đã xây dựng nên cả một nền văn minh, cũng sẽ đập nát nó nếu đến
một ngưỡng nào đó . Có thể dễ dàng chứng minh trên giấy rằng có thể cứu vãn
đựoc nền văn minh và làm nó phát triển mạnh mẽ , bằng cách, đến một thời điểm
thích hợp, ta xoá bỏ chủ nghĩa tư bản đi và biến nhà nước tư hữu tài sản đâøu
cơ trục lợi thành nhà nước công hữu phân phối. Nhưng mặc dầu cái thời điểm đó
đã đến hết lần này sang lần khác , mà cái điều kia vẫn chưa thành hiện thực,
bởi vì chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ khai sáng đủ cho quần chúng , cũng không
chấp nhận cho mệnh lệnh của trí tuệ và ý chí cái quyền ưu tiên tham dự trong
cộng đồng xã hội, mà ngoài nó ra thì chủ
nghiã xã hội, hoặc chính trị, rất ít
hiểu biết. Chỉ cho đến khi hai nguyên lý chính của chủ nghĩa xã hội :xoá bỏ tư
hữu tài sản ( đừng nhầm lẫn với của cải cá nhân ) và bình quân thu nhập đã đi
vào quần chúng như những tín điều tôn giáo , và không một ý kiến trái ngược nào
với nó được coi là lành mạnh, thì nhà nước xã hội chủ nghĩa mới có thể tồn tại
ổn định. Tuy nhiên cần thấy rằng trong hai nguyên lý đó, thì yêu cầu về bình
quân thu nhập không phải khó chứng minh, bởi vì không có và chưa hề có phương pháp
phân phối nào khác có thể thực hiện được . Bỏ qua một vài trường hợp dễ thấy
trong đó kẻ thật sự kiếm được tiền làm nên cơ nghiệp lớn nhờ có phẩm chất tài
năng cá nhân phi thường hay may mắn đặc biệt, sự khác biệt hiện có về thu nhập
giữa công nhân không phải có tính chất cá nhân mà có tính tập đoàn . Trong một
tập đoàn không thể có khác biệt giữa các cá nhân; tất cả công nhân phổ thông,
cũng như tất cả các viên chức tầng lớp trên thu nhập là như nhau. Lý do cho sự
bình quân thu nhập theo giai cấp là: sự phân phối bất bình đẳng của sức mua làm
đảo lộn trật tự đúng đắn của nền kinh tế, một bên là cực kỳ xa hoa một bên là
điều kiện sống cùng cực (những nhu cầu nguyên thuỷ của con người không được
thoả mãn), nó ảnh hưởng đến hôn nhân, bằng cách hạn chế và làm suy đồi lựa chọn
giới tính, làm cho giống nòi thoái hoá, rằng nó hạ thấp tôn giáo, hành chánh,
giáo dục, lập pháp xuống thành ngớ ngẩn như giữa người giàu và người nghèo,
ràng nó tạo ra tệ sùng bái bọn giàu có và lười biếng nó làm làm suy thoái đạo
đức xã hội.
Chẳng may, những định kiến đó lại chính là những điều quan
tâm thiết yếu của công chúng. Cá nhân riêng lẻ, luôn luôn bị mọi cản trở chống
lại y khi y muốn nhoi lên trong xã hội, thậm chí ngay trong cảnh khốn cùng nhất
y vẫn mơ đến một phép màu hay một di chúc để lại một tài sản, nhờ đó y có thể
trở thành một nhà tư bản, và y sợ rằng chút tiền của y có được đó có thể bị
chính sách khủng khiếp và khó hiểu của nhà nước
vồ/nuốt chửng mất. Như vậy lá phiếu bầu của cá nhân riêng lẻ là lá phiếu
của Annias và Sapphirra, và nền dân chủ trở thành rào cản có hiệu lực đối với
CNXH hơn chủ nghiã bảo thủ mềm mỏng và ngu ngơ của bọn tài phiệt. Dưới những
điều kiện như thế , tương lai là điều không thể nói trước . Các đế chế kết thúc
trong suy tàn, các khối của cải vật chất cho đến nay đã vượt quá khả năng dân
sự của loài người . Nhưng luôn luôn tồn tại khả năng loài người lần này sẽ vượt
qua được mũi đất trên đó tất cả các nền văn minh cũ đã bị tiêu vong. Chính là cái khả năng này đã tạo
nên những mối quan tâm mãnh liệt cho thời điểm lịch sử hiện tại, giữ cho chủ
nghĩa xã hội vẫn còn sức sống và sức chiến đấu.
G.B.S. 1926
Hiếu Tân dịch, 2002
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét