Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

Người Khả Dung


Một cú chạm nhẹ của cái chết đã dạy David Eagleman những gì về những bí mật của thời gian và bộ não

Burkhard Bilger

Hiếu Tân dịch


 
David Eagleman, 39 tuổi, là một nhà thần kinh học và một nhà văn. Bằng nghiên cứu khoa học say mê, anh đã đi đến tiếp cận những câu hỏi lớn của triết học. Các lập trường triết học xưa nay nói chung đều mang tính chia cắt và bất dung. Người hữu thần tin vào Thượng Đế của mình không bao giờ dung tha kẻ vô thần và ngay cả những người ngoại đạo. Người vô thần tin như đinh đóng cột vào quan niệm của mình và đấu tranh không khoan nhượng chống tôn giáo. Thuyết bất khả tri bác bỏ cả hai lập trường trên và tự cho là không ai có thể biết gì về những chuyện đó. Eagleman đưa ra một lập trường mới. Anh nói: Trí óc của tôi để mở cho các tư tưởng mà ta không có cách nào thử bây giờ. “..với thuyết Khả Dung, tôi hy vọng định nghĩa một lập trường mới - lập trường nhấn mạnh sự khám phá cái mới, những khả năng chưa được xem xét đến. Thuyết Khả Dung là sự nắm giữ một cách thoải mái nhiều tư tưởng trong đầu óc thuận lợi, nó không quan tâm đến việc gắn kết vào bất kỳ chuyện đặc biệt nào.” (Eagleman trả lời phỏng vấn của New York Times)
   Tôi dùng chữ Khả Dung để dịch thuật ngữ Possibilianism/ Possibilian do Eagleman  sáng tạo ra.  H.T                                     







“Người chỉ có một ý tưởng duy nhất là người nguy hiểm, bởi vì anh ta sẽ chiến đấu và chết cho nó. Cách làm khoa học thật sự là hãy đến với thật nhiều ý tưởng, và phần lớn chúng sẽ là sai.”
–  Francis Crick –


Khi David Eagleman lên tám tuổi, anh bị rơi từ một mái nhà xuống và cứ thế rơi mãi. Hay nó có vẻ như thế vào lúc ấy. Gia đình anh sống ở ngoại ô Albuquerque, dưới chân dãy núi Sandia.  Quanh đó chỉ có vài ngôi nhà, rải rác giữa những bụi cây và những khóm xương rồng, và một công trường xây dựng mới trong ý nghĩ của cậu bé Eagleman là sân chơi tốt nhất. David và anh của cậu, Joel, đã đạp những chiếc xe cà tàng đến một ngôi nhà xây dở dang bằng gạch mộc, cách đó khoảng bốn trăm mét. Sau khi đã thám hiểm các phòng bên dưới, David trèo một cái thang gỗ lên mái nhà. Cậu đứng đó vài phút ngắm phong cảnh - phóng tầm mắt qua sa mạc và những cụm dân cư nhỏ, đến tận thành phố vươn cao xa xa - rồi bước lên một mảng giấy dầu mới lợp, ra một cái gờ bên trên phòng khách. “Trông nó có vẻ cứng, cho nên tôi bước ra tận mép.”  Anh kể với tôi gần đây.
Từ bấy đến nay, trong nhiều năm Eagleman thu thập những câu chuyện giống như chuyện của anh, và hầu hết chúng có cùng bản chất: trong những tình huống đe dọa đến tính mạng, thời gian dường như chậm lại. Anh nhớ lại cái cảm giác ấy một cách rõ ràng. Thân thể anh  nhao ra phía trước khi tấm giấy dầu rách toạc dưới chân anh. Hai bàn tay anh nhoài ra phía gờ, nhưng không với tới nó. Nền gạch trôi lên phía trên - trên nền rải rác những chiếc đinh sáng loáng - khi thân thể anh xoay tròn không trọng lượng bên trên. Đó là một khoảnh khắc im lặng tuyệt đối và nỗi sợ sắc nhọn. Nhưng điều anh nhớ nhất là những ý nghĩ đến với anh giữa không trung: đây là cái mà Alice cảm thấy khi cô rơi xuống hang thỏ.
Eagleman năm nay ba mươi chín tuổi và là phó giáo sư thần kinh học tại Đại học Y Baylor, Houston. Về mặt vật lý, cú rơi thật tệ hại. Anh đã rơi sấp, gần như nằm ngang, xuống những viên gạch, anh nói, và mũi anh chịu va chạm nặng nhất. “Nó chạm đất bằng một điểm,” cha anh diễn tả. Sụn vỡ vụn đến nỗi bác sĩ phẫu thuật trong phòng cấp cứu đã phải lấy hết nó ra, và lắp cho Eagleman một chiếc vòi cao su mà anh có thể uốn theo mọi hướng. Nhưng cái mũi cuối cùng cũng cứng lại, và bây giờ khó mà nói rằng nó đã từng bị thương. Gương mặt Eagleman có những đường nét gãy gọn tinh nghịch, quai hàm  thon nhỏ, tóc mai dài hợp mốt. Trong những hành lang của phòng thí nghiệm Baylor, anh mặc quần jeans và đi giày mũi vuông cao đến mắt cá chân bước đi những bước nhún nhảy trông chẳng khác nào dáng đi khệnh khạng của Pinocchio bước đến Hòn đảo Vui.
Nếu thân thể Eagleman không mang dấu vết gì của tai nạn thời bé, thì tâm trí anh hằn sâu ấn tượng về nó. Anh là người bị ám ảnh bởi thời gian. Là trưởng một phòng thí nghiệm ở Baylor, Eagleman đã để cả chục năm lần theo những mạch thần kinh và tâm lý của những chiếc đồng hồ sinh học của bộ não. Anh thật may mắn đã bước vào lĩnh vực này cùng thời với sự ra đời của  các máy scan fMRI, cho phép các nhà thần kinh học quan sát bộ não đang làm việc, đang suy nghĩ. Nhưng những kết quả tốt nhất của anh thường đến qua những phương tiện sáng tạo hơn: video games, ảo ảnh thị giác, những thách đố vật lý. Eagleman có biệt tài thử những điều không thể thử được, để lấy những khái niệm thô sơ và dùng chúng để đóng đinh những thứ trơn tuột của ý thức. “Trong khoa học có vô số những việc buồn chán buộc phải làm,” anh nói với tôi, “Mà quỹ thời gian của chúng ta lại quá ngắn ngủi, vậy sao không làm những công việc tuyệt vời nhất trên thế giới?”
Phòng thí nghiệm của Eagleman nằm ở tầng trệt của Bệnh viện Ben Taub của Baylor có thể là chiếc nôi của những cô cậu tuổi teen thông minh không đợi tuổi nhưng cực kỳ ham chơi và ham nghịch. Các cánh cửa được ghim những bức hí họa, các quầy gắn những tay điều khiển và những dụng cụ điện tử khác. Bên cạnh bàn hội nghị là một quả cầu cao su đỏ to tướng, được dùng như một cái ghế hay cho một điệu  nhảy hip hop. Khi lần đầu tiên Eagleman chuyển đến, anh cho sơn lại các bức tường màu xanh em bé, với một lớp lót ngoài dễ xóa. Bây giờ, chúng đã được phủ kín từ sàn lên trần bằng những phương trình, những đồ thị, những trục thời gian, những danh mục việc cần làm, những cách ngôn và những phác họa về sóng não – một bản dấu tích kiểu Pollock[1] với những chữ viết tháu đủ mầu đỏ xanh hồng đen. “Những cái cũ cực kỳ khó xóa. Nó cũng giống như trí nhớ vậy,” Eagleman nói với tôi.
Mặc dù Eaglman và các sinh viên của anh nghiên cứu tác động của thời gian trong bộ não, cảm giác của chính họ về thời gian lại có xu hướng không chắc thực thế nào ấy. Mỗi buổi sáng, Eagleman dùng một chiếc đồng hồ đeo tay của Nga để làm việc, mặc dù nó đã bị vỡ cách đây mấy tháng. “Có một hôm, tôi đang ở trong phòng thí nghiệm,” anh kể với tôi, “và tôi nói với Daisy, người ngồi trong góc phòng, “Này, mấy giờ rồi?” Và cô nói: “Tôi không biết. Đồng hồ của tôi bị hỏng rồi.” Té ra cả hai chúng tôi đeo những chiếc đồng hồ hỏng. Các nhà khoa học thường bị lôi kéo vào những chuyện nó hành hạ mình, anh nói. Tôi biết có một phòng thí nghiệm nghiên cứu các cơ quan nhận cảm nicôtin và tất cả các nhà khoa học ở đó đều hút thuốc, và một phòng thí nghiệm khác nghiên  cứu kiểm soát béo phì thì tất cả bọn họ đều thừa cân. Nhưng mâu thuẫn của anh sâu sắc hơn nhiều. Các đồng hồ cho ta một hư cấu thuận tiện, anh nói. Chúng hàm ý rằng thời gian tiến về phía trước một cách đều đặn, có thể đoán trước, trong khi kinh nghiệm của chúng ta cho thấy nó luôn luôn làm điều ngược lại: nó co dãn, nhảy vọt lên một cái và quay trở lại gấp đôi.
Bộ não là một máy đếm nhịp có khả năng tuyệt vời cho nhiều mục đích. Nó có thể theo dõi những giây, phút, ngày tuần, đặt chuông báo thức vào buổi sáng, báo giờ đi ngủ, báo ngày sinh nhật và các dịp lễ. Sự sắp xếp thời gian ấy quá thiết yếu đối với sự sống còn của chúng ta đến nỗi nó có thể được tinh chỉnh tinh tế nhất cho các cảm giác của chúng ta, trong các trắc nghiệm của phòng thí nghiệm, người ta có thể phân biệt các âm thanh cách nhau chỉ năm phần nghìn giây, và việc xử lý thời gian một cách tự phát của chúng ta còn nhanh hơn. Nếu anh đang xuyên qua rừng già, và một con hổ gầm lên trong một bụi cây, bộ não của anh ngay lập tức thu nhận lấy tiếng gầm ấy bằng cách so sánh khi nó đến mỗi bên tai, và lập thành một tam giác giữa ba điểm. Chênh lệch có thể nhỏ đến mức chín phần triệu giây đồng hồ.
Tuy nhiên “thời gian não” như Eagleman gọi, về thực chất là chủ quan. “Hãy thử làm bài tập này,” trong một tiểu luận gần đây anh đề nghị. “Bỏ cuốn sách này xuống và đến nhìn vào một tấm gương. Đừng cử động mắt qua lại, sao cho khi bạn đang nhìn vào mắt trái của bạn, rồi nhìn vào mắt phải, rồi nhìn lại mắt trái. Khi mắt bạn chuyển từ vị trí này sang vị trí kia, chúng cần thời gian để di chuyển và đặt vào vị trí khác. Nhưng đây mới là chuyện đáng nói: bạn không bao giờ thấy mắt bạn chuyển động.” Không có chứng cứ nào về bất kỳ quãng cách nào trong cảm nhận của bạn - không có khoảng tối đen bị kéo dài liên tục giống những mẩu phim đen không có hình – mà phần lớn những gì bạn nhìn đã bị chỉnh sửa đi. Bộ não của bạn đã lấy một cảnh phức tạp của đôi mắt liếc qua liếc lại và cắt lại nó thành một cảnh đơn giản: đôi mắt của bạn nhìn thẳng phía trước. Vậy những khoảnh khắc ấy mất đi đâu?
Câu hỏi này đặt ra một vấn đề cơ bản của ý thức: bao nhiêu phần của những gì chúng ta nhận thức tồn tại bên ngoài chúng ta, và bao nhiêu phần nó là sản phẩm của trí óc chúng ta? Thời gian là một đại lượng như những đại lượng khác, được cố định và xác định đến những phân lượng nhỏ nhất: từ nghìn năm đến phần triệu giây, từ một kỷ[2] đến một dao động của tinh thể thạch anh[3]. Thế nhưng những dữ liệu ấy hiếm khi trùng hợp với thực tại của chúng ta. Những chuyển động nhanh của mắt trong gương, gọi là những saccade[4], không phải là những cái duy nhất bị chỉnh lý đi. Sự rung nhòa camera của cái nhìn hằng ngày được làm mịn đi theo cách tương tự, và những ký ức của chúng ta được sửa lại triệt để. Vậy chúng ta còn mất cái gì khác nữa? Khi Eagleman còn là một cậu bé, trò chơi ưa thích của cậu ta là giả làm một con rùa đi vào một văn phòng cảnh sát trưởng. “Tôi vừa bị bọn ốc sên tấn công!” cậu gào lên. “Nói cho tôi biết chuyện xảy ra như thế nào?” Viên cảnh sát trưởng trả lời. Con rùa lắc đầu: “Tôi không biết, nó xảy ra quá nhanh.”
Cách đây ít năm. Eagleman nghĩ lại chuyện hồi bé anh bị ngã từ mái nhà xuống và quyết định là nó đặt ra một vấn đề thú vị để nghiên cứu. Tại sao thời gian chậm lại khi chúng ta sợ hãi cho mạng sống của chúng ta? Phải chăng bộ não chuyển mạch trong một vài giây lơ lửng và nhận thức thế giới với một nửa tốc độ, hay có một cơ chế nào khác đang tác động? Cách duy nhất để biết chắc chắn là tái tạo tình huống trong một sự sắp đặt có kiểm soát. Eagleman và một trong những sinh viên của anh, Chess Stetson, hiện giờ ở Caltech, bắt đầu bằng thiết kế và lập trình một “máy đếm thời gian tri giác” có kích cỡ vào khoảng một cỗ bài, nó có một đèn L.E.D hiển thị nối với một mạch và chạy bằng một bộ pin 9 von. Chiếc máy nhỏ này có thể buộc vào cổ tay đối tượng, tại đó nó nhấp nháy một con số với một tốc độ vừa vượt qua ngưỡng của tri giác. Nếu thời gian chậm lại, con số sẽ trở nên thấy được. Bây giờ anh cần đến một tình huống thật giống sự đe dọa tính mạng.
Một buổi chiều muộn vào tháng Mười, Eagleman và tôi chạy xe đến một bãi đậu xe nền đá sỏi ở tây bắc Dallas. Một phòng bán vé xám xịt xây bằng bê tông xỉ than đứng một bên, trên cửa có bảng hiệu ghi “Không Trọng lực.” Bên trong, qua một hàng rào thấp có xích khóa lại, cả một tập hợp những cấu trúc thép khổng lồ nhiều tầng vươn cao trên bầu trời. Bên trái là một cái bục trông ọp ẹp với những dây cao su lủng lẳng; bên phải, một cối xay gió màu cam quái dị với những chiếc ghế gắn vào các đầu cánh. “Chúng tôi phải cho nó ngưng hoạt động,” một trong những nhân viên của bãi giữ xe chỉ vào nó nói với tôi. “Nó đang đợi phụ tùng từ Đức.”
Không Trọng lực được quảng cáo như một công viên trò chơi cảm giác mạnh, nhưng nó giống với một công trường bị bỏ hoang hơn – hay một đấu trường cho những trận giác đấu trong một phim hậu tận thế. Khi Eaglema đến đó lần đầu, cách đây năm năm, anh biết đây chính là chỗ cho anh. Anh đã thử chiếc máy đếm nhịp trên các sinh viên tốt nghiệp của anh, trong một chuyến đi dã ngoại đến Six Flags AstroWorld, ở Houston, nhưng ngay cả những đoàn tầu rồng rắn[5] lớn nhất cũng tỏ ra chưa đủ khủng khiếp. Anh cần một cái gì đó tuyệt đối an toàn nhưng thật sự giống như chết. “Tôi nghiền ngẫm vấn đề này một hồi,” anh nói với tôi. “Tôi không thể đưa người ta vào một vụ tai nạn xe cộ được.” Sau đó anh nghe nói về SCAD.
Nó đứng giữa bãi Không Trọng lực giống như một giàn khoan dầu xây dở dang. Một giỏ khí cầu treo giữa bốn chân của nó và có thể được nâng lên đỉnh bằng những sợi dây cáp to khỏe. SCAD là những chữ đầu của tên một dụng cụ không khí lơ lửng (suspended catch air device) – một  cụm từ còn khó hiểu hơn cả mấy chữ viết tắt ấy. Nhưng ý tưởng thì đơn giản: khi người chơi đi lên đỉnh của tháp, anh ta sẽ được móc vào đầu một sợi cáp và được thả xuống qua một cái lỗ trong sàn của giỏ khí cầu. Lưng anh ta hướng xuống đất, mắt anh ta nhìn thẳng lên trên. Khi sợi cáp được thả, anh ta bị lao thẳng xuống hơn ba mươi mét, một cú rơi hoàn toàn tự do, cho đến khi đụng một tấm lưới căng gần mặt đất. “Tôi đã lên cái đó ba lần, và lần nào cũng thấy rùng rợn,” Eagleman nói. “Lần thứ hai anh rơi, mọi bộ phận trong người anh bị khóa chặt. Người anh cứng như đá, và anh không thở được. Anh bị rơi ngửa, lưng xuống trước, với tốc độ tám mươi cây số một giờ khi anh chạm vào tấm lưới.”
Chúng tôi lục tìm trong khắp bãi xem có kiếm được người nào tình nguyện không, nhưng bãi hoàn toàn vắng vẻ. Trong cả nước chỉ có hai SCAD mà cả hai, cho mãi đến gần đây, có những kỷ lục nguyên vẹn về an toàn. Thế rồi vào tháng Bẩy một nhân viên vận hành SCAD giật khởi động một cú rơi trước khi tấm lưới được nâng lên đến vị trí của nó. Khi người chơi -  một em gái mười hai tuổi tên là Teagan Marti – rơi xuống tấm lưới, động lượng của em đẩy nó dãn xuống tận đất. Cú va chạm ấy làm nứt xương sọ và làm gẫy xương em ở mười vị trí. Sau đó, người vận hành ấy được cho đi nghỉ vì lý do sức khỏe tâm thần. “Đây là lỗi của con người,” người phục vụ ở Dallas nói chắc chắn với chúng tôi như vậy. Trước đây không có gì như thế xảy ra ở đây.
Đúng lúc đó, một cặp trẻ lững thững đi vào bãi. Cả hai khoảng ngoài hai mươi tuổi, mặt tròn vành vạnh và hơi bồn chồn. April có cặp kính tròn và tóc đuôi ngựa; T.J. có chiếc áo thun mầu đen rộng lùng thùng với một thanh kiếm vẽ trên đó, và một mớ tóc rất mốt chải ngược trên đỉnh. Hai người gặp nhau tại Walmart ở Weatherford cách đây một giờ, họ nói với tôi.  April tìm thấy chỗ này trên mạng,  nhưng dường như đã lấy làm tiếc: cô nắm chặt tay T.J. và nhìn chằm chằm vào SCAD, vai cô nhô lên đến tận tai. Anh nhìn theo hướng cô nhìn. “Trước đây tôi đã nhẩy từ vách đá cao xuống hồ,” anh nói. “Nhưng cái này gần như thế.”
Khi Eagleman cho họ xem chiếc máy đếm nhịp, họ có vẻ hơi nghi ngờ. Cái phấn khích của Eagleman về nghiên cứu của anh thường dễ lây. Anh là người nói giỏi, với cái tài vay mượn những câu chuyện tương tự và anh có khuynh hướng nhảy cóc từ ý tưởng này sang ý tưởng khác cho đến khi giọng anh khàn đi và trí óc anh phóng đến những kích thước xa rộng. (Có lần anh hỏi tôi “chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta đáp xuống một  hành tinh có những sinh vật xa lạ sống bằng một thang thời gian khác với chúng ta? Liệu chúng ta có giống như những bức tượng đối với họ như những cái cây đối vơi chúng ta?” Tuy nhiên, trong khung cảnh này, quả là khó mà coi anh là nghiêm túc. Anh càng cố tỏ ra nghiêm trang và khoa học, thì April và T.J. dường như càng coi anh như một tay khoái du hành vũ trụ đến mê mụ đang nói liên hồi về chiếc máy thời gian của mình.
Tuy nhiên, họ đồng ý thử. Người phục vụ lắp ráp các dây rợ khóa móc, chốt họ vào giỏ khí cầu đẩy họ chòng chành lao vào bầu trời Texas. Tôi thấy lọn tóc đuôi ngựa của April quất trên đầu cô giống như một nhát quất của gió. “Hôm nay là ngày mấy, Thứ Ba à?” Eagleman nói. “Làm thế nào một người, vào ngày thứ Ba, sáng ngủ dậy quyết định “Hôm nay là ngày mà mình sẽ làm cho mình sợ đến chết?” Rồi anh rút từ trong túi ra một chiếc đồng hồ bấm giây và đợi hai thân thể kia rơi xuống.
Eagleman cho rằng nghiên cứu của anh bắt nguồn từ các nhà tâm-sinh lý học Đức cuối thế kỷ mười tám, nhưng ông tổ thật sự của anh có lẽ là nhà sinh lý học Mỹ Hudson Hoagland. Vào đầu những năm một nghìn chín trăm ba mươi, Hoagland đề xuất một trong những mô hình đầu tiên của ông về cách bộ não lưu giữ thời gian, một phần dựa trên hành vi của vợ ông khi bà bị bệnh cúm. Sau này ông nhớ lại, bà than rằng bà bị rơi ra khỏi mép giường quá chậm, khi ông ra ngoài chỉ một khoảng thời gian rất ngắn. Do đó Hoagland đề xuất một thí nghiệm: bà sẽ đếm đến sáu mươi giây trong khi ông dùng đồng hồ bấm. Không khó tưởng tượng sự bực bội của bà khi nghe lời đề nghị ấy, và sự tự mãn của ông sau đó: sau khi thời gian của bà đã hết, đồng hồ của ông chỉ ba mươi bẩy giây. Hoagland tiếp tục lặp lại thí nghiệm đó nhiều lần, chắc  hẳn phải vượt qua sự phản đối dữ dội của bà vợ, (bà sốt tới 39,4 độ). Kết quả là một trong những đồ thị kinh điển của tài liệu khoa học về nhận thức thời gian: Hoagland nhận thấy nhiệt độ của vợ càng lên cao thì ước lượng thời gian của bà càng ngắn. Giống như động cơ của một chiéc xe đua: đồng hồ tâm thần của bà càng chạy nhanh bao nhiêu thì nó càng nóng lên bấy nhiêu.
Các nhà tâm lý học đã bỏ ra nhiều thập kỷ sau đó để cố lý giải cơ chế này. Họ làm thí nghiệm với chuột, cá, rùa, mèo, và bồ câu, rồi chuyển sang khỉ, trẻ em và những người lớn có não bị tổn thương. Họ quay điện các đối tượng với các điện cực, nhốt chúng trong những cái chụp được nung nóng, nhấn chúng vào những thùng nước, và làm cho chúng tức điên lên vì những cú chọc phá liên tục, hy vọng làm cho những chiếc đồng hồ nội tại của chúng chạy nhanh lên hay chậm lại. Hoagland tin rằng việc đo thời gian là một “quá trình hóa học đồng nhất” gắn với trao đổi chất. Nhưng những nghiên cứu sau đó gợi lên một hỗn hợp các hệ thống, mỗi hệ thống theo một thang thời gian khác nhau – não tương đương với đồng hồ mặt trời, một đồng hồ cát, và một đồng hồ nguyên tử. “Mẹ Thiên nhiên là một người thợ hàn chứ không phải một kỹ sư,” Eagleman nói. “Bà không chỉ sáng chế ra một cái gì đó, và kiểm nó theo một danh sách. Mọi vật là lớp này xếp chồng lên lớp khác, và điều đó tạo ra thật nhiều sức khỏe.” Bệnh Parkingson có thể tác động đến khả năng nhận biết các khoảng thời gian đến vài giây chẳng hạn, nhưng  để những phần nhỏ của giây nguyên vẹn.
Vấn đề chúng ta chứa bao nhiêu đồng hồ vẫn còn chưa rõ. Luận văn về khoa thần kinh học gần đây nhất mô tả bộ não như là một mái hắt kiểu Victoria đầy những đồ vật được dán nhãn lờ mờ và kỳ cục, trôi về mọi góc. Chiếc đồng hồ xuất hiện mỗi ngày một lần theo dõi chu kỳ của ngày và đêm, ẩn núp vào trung tâm suprachiasmatic, vào hypothalamus[6]. Tiểu não, vùng điều khiển các vận động cơ bắp, có thể kiểm soát xử lý thời gian theo trật tự một vài giây hoặc vài phút. Những hạch cơ bản và các bộ phận khác của vỏ não tất cả đã được giao chức năng như những máy bấm giờ, mặc dầu có những chỗ không thích hợp về chi tiết. Hình mẫu chuẩn  do nhà tâm lý học Columbia John Gibbon (đã quá cố) đề xuất trong những năm một chín bảy mươi, cho rằng bộ não có những nơ ron “máy điều hòa nhịp” thả ra những mạch đập đều đặn của những dẫn truyền thần kinh. Gần đây hơn, ở Duke, nhà thần kinh học Warren Meck đã gợi ý rằng cảm nhận thời gian được điều khiển bằng các nhóm nơ ron dao động với nhiều tần số khác nhau. Ở U.C.L.A. Dean Buonomano tin rằng các miền trên khắp bộ não hoạt động như những chiếc đồng hồ, các mô của chúng tích tắc với những mạng lưới thần kinh, thay đổi trong những mẫu hình có thể đoán trước. “Hãy tưởng tượng một tòa nhà chọc trời trong đêm,” anh bảo tôi. “Một số người trên tầng cao nhất làm việc đến tận nửa đêm, trong khi một số khác trên những tầng thấp hơn đi ngủ sớm. Nếu anh nghiên cứu các mẫu hình này đủ lâu, anh sẽ có thể biết giờ chỉ bằng cách nhìn lên những đèn nào còn sáng.
Thời gian không giống như những cảm giác khác, Eagleman nói. Nhìn, ngửi, sờ, nếm và nghe là tương đối dễ cô lập trong não. Chúng có những chức năng riêng biệt rất hiếm khi chồng lấn nhau: khó mà mô tả cái vị của một âm thanh, mầu của một mùi, hay mùi của một xúc giác. (Trừ khi, tất nhiên, bạn có cảm giác kèm (synesthesia) – một trong những nỗi ám ảnh khác của Eagleman.) Nhưng một cảm giác về thời gian len lỏi qua mọi thứ mà chúng ta cảm nhận. Nó có đó trong độ dài của một bài hát, trong cái dai dẳng của một mùi hương,  trong sự lóe sáng của một bóng đèn. “Trong khoa thần kinh học luôn luôn có một sức đẩy tới não tướng học – tới chỗ nói rằng ‘đây là nơi xảy ra chuyện đó,’ Eagleman nói với tôi. “Nhưng điều thú vị về thời gian là không có nơi chốn nào hết. Nó có một đặc tính tản mác. Nó là siêu cảm giác; nó vọt lên đỉnh của tất cả các cảm giác khác.”
Điều bí ẩn thật sự là tất cả những cái đó phối hợp với nhau như thế nào. Khi bạn xem một trận bóng  hay cắn một miếng hotdog, các giác quan của bạn có một sự đồng bộ hoàn hảo: chúng xem và nghe, nếm và ngửi cùng một thứ tại cùng một thời điểm. Tuy nhiên chúng hoạt động ở những tốc độ khác nhau về cơ bản, với những dữ liệu vào khác nhau. Âm thanh chuyển động chậm hơn nhiều so với ánh sáng, mùi và vị còn chậm hơn nữa. Ngay cả nếu những tín hiệu đó vào đến não của bạn cùng một lúc, chúng cũng được xử lý với những tốc độ khác nhau. Eagleman vạch rõ: lý do mà những cuộc chạy đua100-m xuất phát bằng một phát súng lệnh chứ không phải bằng một ánh sáng lóe lên, là cơ thể phản ứng với âm thanh nhanh hơn nhiều. Những lỗ tai của chúng ta và khu vực  thính giác của vỏ não có thể xử lý một tín hiệu nhanh hơn mắt và khu vực thị giác của vỏ não bốn mươi mili giây – hơn là bắt kịp với tốc độ ánh sáng. Có lẽ đây là dấu vết còn sót lại của cái thời chúng ta sống trong rừng già, tai nghe tiếng hổ gầm trước khi nhìn thấy nó.  
Trong tiểu luận của Eagleman “Thời gian của não” in trong tuyển tập “Điều gì tiếp theo? Những thông điệp về tương lai của khoa học” anh mượn hình tượng của “Những thành phố vô hình” của Italo Calvino. Bộ não, anh viết, giống như Kubai Khan, vị Đại đế Mông Cổ thế kỷ mười ba. Nó được đăng quang trong hộp sọ “được bao bọc trong bóng tối và trong im lặng,” ở một khoảng cách cao vời so với thực tại thô thiển trần trụi. Các sứ giả từ mọi nơi trong vương quốc cảm giác tuôn về, mang theo lời của những hình ảnh âm thanh và mùi vị từ xa xăm. Những lời trình báo của họ đến với tốc độ khác nhau, thường quá hạn từ lâu, nhưng tất cả các chi tiết vẫn được khâu đính lại với nhau thành một kỷ yếu liền mảnh. Cái khác là Kubai Khan ráp lại quá khứ. Bộ não mô tả hiện tại – xử lý những tập dữ liệu rời rạc trên đường bay, chỉnh sửa mọi thứ vào một khoảnh khắc tức thời của hiện tại. Làm thế nào nó làm được việc đó?
Vấn đề thân-tâm đã khiến Eagleman trăn trở nhiều hơn hết. Mẹ anh kể với tôi, khi anh còn bé, anh đã có khuynh hướng “phân tách bản thân” để đánh giá hoạt động nội tâm của anh từ một khoảng cách bình thản, có tính phê phán. “Bộ não của tôi có thể làm được điều này,” anh nói. Mẹ anh là một giáo viên sinh học, cha anh là một chuyên gia tâm thần thường được mời đánh giá những lời khẩn cầu điên rồ, nhưng con trai của họ là một tạo vật vượt ra ngoài kinh nghiệm thông thường của họ. “Có nhiều chuyện về David khá ngộ nghĩnh,” mẹ anh nói. Anh viết những chữ đầu tiên vào tuổi lên hai, trên một máy đánh chữ hiệu Underwood. Năm mười hai tuổi, anh bắt đầu giảng giải thuyết tương đối cho họ. Một trong những trò chơi ưa thích của anh là đòi một danh sách những đồ vật ngẫu nhiên, rồi nhắc lại theo trí nhớ - theo thứ tự ngược lại, nếu người ta muốn. Kỷ lục của anh là bốn trăm thứ đồ vật.
Khi còn là  một sinh viên chưa tốt nghiệp ở Rice, Eagleman đã muốn làm nhà văn, nhưng cha mẹ anh thuyết phục anh chọn môn kỹ thuật điện tử. “Nó giống như là nhai những chiếc là mùa thu,” anh nói. Sau đó là một kỳ nghỉ phép kéo dài. Sau năm học thứ hai, Eagleman tình nguyện sung vào quân đội Israel, rồi dự một học kỳ tại Đại học Oxford nghiên cứu khoa học chính trị và văn học, cuối cùng chuyển đến Los Angeles để trở thành người viết kịch bản phim và diễn viên tấu hài. Chẳng cái nào trụ được lâu. “Tôi biết tôi có một số năng lượng trí tuệ” anh nói. Nhưng tôi không biết những món đồ trang sức của tôi có thể bán được ở đâu.” Trở lại Rice, anh bắt đầu đọc các sách về về bộ não trong những thời gian rảnh rỗi và quyết định theo một khóa về khoa ngôn ngữ thần kinh. “Ngay lập tức tôi mê say với ý tưởng về nó,” Eagleman nói. “Đây là một cơ quan nặng hơn một ký trong đó chứa đựng tất cả những gì là chúng ta – những hy vọng và những ước muốn và những tình yêu của chúng ta. Ngay trang đầu nó đã chiếm được tôi rồi.”
 Các nhà toán học, giống như các nhạc sĩ rock, thường hoàn thành các công trình tuyệt tác của họ vào độ tuổi hai mươi và ba mươi. Câc nhà thần kinh học thì không thế. Các giải Nobel trong lĩnh vực này thường giành được vào khoảng giữa sự nghiệp, sau vài lần khởi hành sai và lạc đường. không mang lại kết quả gì. “Sinh hoc đặc biệt theo cách này,” Eagleman nói. “Người ta phải mất nhiều năm mới đạt đến một cảm giác về cơ thể - về cách hoạt động thật sự của tự nhiên. Những người trẻ bước vào môn này bao giờ cũng biết một mớ những bài toán làm say mê nhất thời. Họ nói, “Nếu nó giống mô hình điện toán này, bài toán vật lý này, thì sao nhỉ?” Đó là những ý tưởng rất hay, nhưng chúng sai. Không có cái gì hoạt động theo cách người ta mong chúng hoạt động.
 Eagleman nói từ kinh nghiệm. Khi là một sinh viên tốt nghiệm ở Baylor, anh đầu tiên nghiên cứu toán học cực kỳ say mê, trong khi chưa được đào tạo gì nhiều về sinh học. (“Tôi đã hỏi các giáo sư rằng họ đang làm gì, và họ nói, ‘vâng vâng… Hy lạp, Hy lạp, Latin, Latin,’ anh nói về cuộc phỏng vấn thi tuyển của anh.) Để làm luận án tiến sĩ, anh lập trình một mẩu mô thần kinh thật, phức tạp đến nỗi nó chiếm dụng siêu máy tính của Trung tâm Y khoa Texas trong nhiều ngày, khiến khắp cả trường Đại học nổi những lên lời phàn nàn.  “Tôi nhớ khi anh ấy viết luận văn, anh ấy có một bao khoai tây sống ở dưới gầm bàn,” giáo sư hướng dẫn của anh, Read Montague, nói với tôi. “Anh ấy nướng một củ khoai tây trong lò viba, đặt nó trong một cái chén, rồi nhoài người ra cắn một miếng trong khi đánh máy. Dường như đây là lối sống của phòng thí nghiệm chúng tôi trong nhiều thập kỷ liên tiếp. Nó xua đi những mệt mỏi uể oải của tâm hồn.”
Chương trình cura Eagleman là một kỳ công cả về mặt lý thuyết lẫn thực tiễn: nó chứng tỏ rằng các tế bào não có thể trao đổi thông tin không chỉ thông qua các dẫn truyền thần kinh mà còn qua cả sự dao động của các nguyên tử can xi nữa. Anh tiếp tục nhận được học vị sau tiến sĩ ở viện Salt danh tiếng, gần San Diego. Tuy nhiên, một khi đã ở đó rồi, anh rơi vào tầm ảnh hưởng của Francis Crick, một nhà sinh học quan tâm nhiều hơn đến những mô phỏng thông minh. Crick tám mươi ba tuổi khi Eagleman gặp ông, năm 1999. Ông đã nhận giải Nobel cùng với James Watson gần bốn mươi năm trước, về giải mã cấu trúc DNA, nhưng từ đó nghiên cứu của ông đã rẽ ngoặt sang tả, từ di truyền học sang nghiên cứu về ý thức. “Chúng tôi làm những seminar này, và ông ngồi đó, đầu gật gù, còn tôi thì suy nghĩ, Ôi, ông già tội nghiệp, sự trả giá của tuổi tác,” Eagleman nhớ lại.  “Rồi trên khuôn mặt ông nở một nụ cười và ông giơ một bàn tay lên – và thế cũng đủ đi vào gan ruột người nói. Tôi chưa bao giờ thấy một cái gì như thế.”
Trong nhiều thập kỷ, các nhà nghiên cứu về não đi theo sự dẫn dắt của những người theo chủ nghĩa hành vi, như B.F. Skinner. Họ xử lý đối tượng của họ như một cái máy giống bất kỳ cái máy nào khác, với những đầu vào, đầu ra và những cơ cấu mờ mịt ở giữa. Nhưng Crick và một nhóm những nhà nghiên cứu khác tin rằng bây giờ là lúc cậy bật nắp chiếc hộp đen của Skinner – để ít ra bắt đầu nhận dạng các cơ cấu của ý thức cá nhân.  “Khi tôi bắt đầu tiến hành, về cơ bản người ta không được phép nói về nó,” Eagleman nói. “Tại sao nó cảm thấy giống như một cái gì đang sống? tại sao khi anh tập hợp lại một triệu bộ phận, một cái gì đó bỗng nhiên có cảm giác về bản thân nó? Tất cả những điều này bay qua cửa sổ theo Skinner. Và cần có một người mang dáng vẻ trang trọng của Crick bước vào và nói: “Các anh biết gì không? Đây là một vấn đề khoa học – lý thú nhất trong thời đại chúng ta.” Crick gọi nó là cuộc tìm kiếm linh hồn bằng khoa học.
Eagleman phải đợi mất mấy tuần mới được vào yết kiến Crick. (“Tôi gần như đã trở thành bạn thân với thư ký của ông” anh bảo tôi.) Nhưng sau đó hai người mau chóng tâm đầu ý hợp và gặp nhau thường xuyên. Giống như Crick, Eagleman mê mẩn với ý thức. Anh nghĩ về thời gian không chỉ như phép tính thần kinh – một thứ dành cho các đồng hồ sinh học – mà như một cửa sổ trong những vận động của trí tuệ. Chẳng hạn, trong một luận văn đăng trên Sience năm 2000, Eagleman xem xét một ảo ảnh thị giác được gọi là hiệu ứng lóe-trễ. Ảo ảnh này có thể có nhiều dạng, nhưng dưới dạng của Eagleman nó bao gồm một đốm trắng lóe lên trên một màn hình khi một vòng tròn màu xanh đi qua nó. Để xác định đốm trắng gặp vòng tròn ở chỗ nào, Eagleman thấy rằng sức chú ý của những người tham gia thí nghiệm của ông phải di chuyển tới lui đúng lúc. Họ thấy đốm sáng lóe lên, rồi quan sát vòng tròn di chuyển và tính toán quỹ đạo của nó, rồi quay trở lại và đặt đốm sáng trên vòng tròn. Đây không phải vấn đề đoán trước, mà là đoán sau.
Điều tương tự như thế luôn luôn diễn ra trong ngôn ngữ, Trưởng khoa Buonomano nói với tôi. Nếu ai đó nói, Con chuột trên bàn bị vỡ rồi” thì trí óc của bạn nghĩ đến một hình ảnh khác hơn nếu bạn nghe, “Con chuột trên bàn đang ăn pho mat.” Não bạn ghi nhận từ “chuột”, đợi bối cảnh của nó, và chỉ sau đó mới quay trở lại để hình dung ra nó. Nhưng ngôn ngữ vẫn để dành thời gian cho những ý nghĩ khác. Hiệu ứng lóe-trễ dường như ngay tức khắc. Cứ như thể từ “con chuột” được biến thành từ “track pad”[7] trước khi bạn nghe thấy nó.
Giải thích điều này vừa đơn giản vừa lạ lùng một cách sâu sắc. Eagleman lần đầu tiên mô tả nó cho tôi trên đường từ Houston đến công viên trò chơi cảm giác mạnh Không Trọng lực ở Dallas. “Hãy tưởng tượng có một tai nạn xảy ra trên đường cao tốc phía trước,” anh mở đầu. “Một trong những chiếc xe này lao vào chiếc  cầu kia.” Nếu sự va chạm cách xa một trăm mét, chúng ta thấy chiếc xe tông vào cầu trong im lặng. Âm thanh, như một hồi sấm, phải mất thời gian để đến chúng ta. Cuộc va chạm càng gần, sự trễ càng ngắn, nhưng chỉ đến một điểm: ở khoảng cách ba mươi ba mét, âm thanh và hình ảnh bỗng nhiên khóa chặt với nhau. Eagleman giải thích rằng dưới ngưỡng này các tín hiệu đến với não cách nhau một trăm mi li giây, và mọi sự khác biệt đều bị xóa đi trong quá trình xử lý. Trong thời kỳ đầu của vô tuyến truyền hình, Eagleman bảo tôi, những người phát chương trình nhận ra một hiện tượng tương tự. Các kỹ sư của họ gặp rất nhiều rắc rối khi làm đồng bộ âm thanh với hình ảnh, nhưng chẳng bao lâu mới rõ rằng cầu toàn ở đây là vô ích. Chừng nào mà sự trễ nhỏ hơn một trăm mi li giây, thì không ai để ý đến nó.
Cái lề của sai lầm rộng một cách đáng ngạc nhiên. Nếu bộ não có thể phân biệt được các âm thanh cách nhau đến năm mili giây, tại sao chúng ta không nhận thấy một sự trễ dài hơn hai mươi lần? Một câu trả lời khả dĩ hình thành vào cuối những năm một chín năm mươi, trong tác phẩm của Benjamin Libet, một nhà sinh lý học ở Đại học California, San Francisco. Libet làm việc với các bệnh nhân tại một bệnh viện địa phương nơi nhận những ca giải phẫu thần kinh và đã khoan lỗ trong hộp sọ của họ để lộ vỏ não ra. Trong một thí nghiệm, ông dùng một điện cực để kích thích mô não bằng những xung điện. Vỏ não được đấu nối trực tiếp với da và nhiều bộ phận khác của cơ thể, do đó những người làm thí nghiệm có thể cảm thấy ngứa ran ở vùng tương ứng. Nhưng không phải ngay tức khắc. Cú sốc điện chưa được ghi nhận trong khoảng nửa giây – một khoảng vô tận trong thời gian của não. “Những điều được gợi ý ở đây là hoàn toàn kinh hoảng” Liber sau đó viết. “Chúng ta không ý thức được về khoảnh khắc thực của hiện tại. Chúng ta luôn luôn bị muộn đi một chút.”
Những phát hiện của Liber rất khó lặp lại (vào thời ấy việc mở phanh bộ não của bệnh nhân ra gây phản ứng rất khó chịu), và đến bây giờ vẫn gây nhiều tranh cãi. Nhưng với Eagleman chúng có rất nhiều ý nghĩa. Anh nói, giống như Kuban Khan, bộ não cần có thời gian để làm cho câu chuyện của nó thành rõ ràng. Nó thu thập mọi chứng cứ của các giác quan của chúng ta, và chỉ sau đó mới bộc lộ ra cho ta. Cách nào đó, nó là một ý tưởng phản trực giác một cách sâu sắc. Chạm ngón tay anh vào than hồng hay châm một đầu kim nhọn vào nó, cái đau đến ngay tức khắc. Anh cảm thấy nó ngay bây giờ, không phải sau nửa giây. Nhưng nhận thức và thực tại thường lệch ra ngoài ghi nhận một chút, như thí nghiệm về di chuyển mắt đột ngột cho thấy. Nếu tất cả các cảm giác của chúng ta đề trễ đi một tí, chúng ta sẽ không có bối cảnh nhờ đó mà ta đo lường được sự trễ nào đó. Thực tại là một buổi phát hình quay chậm (ghi trễ) được kiểm duyệt cẩn thận trước khi đến với chúng ta.
“Sống trong quá khứ có thể giống  như một thế bất lợi, nhưng đó là cái giá mà bộ não sẵn sàng trả,” Eagleman nói. “Đó là cố gắng tập hợp những câu chuyện hay nhất có thể có về những gì đang diễn ra trên thế giới, và điều đó cần thời gian.” Xúc giác là chậm nhất trong tất cả các cảm giác, vì tín hiệu phải đi lên tận tủy sống từ những nơi xa xôi như những ngón chân cái. Điều ấy có thể có nghĩa rằng sự chậm trễ nói chung là một chức năng của kích thước cơ thể: những con voi có thể sống xa hơn trong quá khứ hơn những con chim ruồi, còn con người ở đâu đó vào khoảng giữa. Anh càng nhỏ thì càng sống nhiều trong khoảnh khắc này. (Eagleman nghi ngờ rằng tốc độ của tiếng gọi bạn tình của loài vật – từ tiếng hót của một con chim chickadee đến giọng đồng ca nhà thờ của một thằng gù – là cái được ủy quyền vì cảm giác thời gian của nó). “Tôi đã có lần nhắc đến điều này trong một cuộc phỏng vấn của đài phát thanh quốc gia (NPR) và bị ngập lụt bới những e-mail từ những người lùn,” Eagleman nói. “Họ rất hài lòng. Trong khoảng một ngày, tôi là anh hùng của những người lùn.”
Rất nhiều điều có thể xảy ra trong vòng nửa giây. Với tốc độ tám mươi km một giờ, chẳng hạn, một cơ thể có thể rơi tới mười hai mét (trong nửa giây đó). April, cô gái trẻ từ Weatherford, Texas, dường như biết rõ điều đó khi cô lao mình trên SCAD vào cuối buổi chiều hôm đó. Tôi nghe thấy tiếng cô cố nén Ayiiiiiiiiiiiiii! khi cô lao thẳng đứng từ trên đỉnh tháp xuống. Eagleman quan sát vệt của cô vụt qua, rồi bấm chiếc đồng hồ bấm giây của anh. “Thật lạ lùng,” anh nói, họ không hề kêu.” April mất một lúc gỡ mình ra khỏi chiếc lưới an toàn, và bước vững vàng đến bên chiếc ghế dài gần đó. Khi chúng tôi đến với cô, cô chớp chớp mắt và lơ đãng liếc quanh – cô đã tháo cặp kính ra trước khi lao xuống – đôi mắt cô mở to vì chấn động.
“Có đáng công không?” Eagleman hỏi.
“Không,” cô nói.
“Cô không thấy rợn người khi tiếp đất à?”
“Không. Đau thôi.”
Ít phút sau, bạn trai của cô, T.J., đến ngồi với cô trên ghế dài. Anh đã chụp lên đầu một chiếc mũ Budweiser hất ngược, và vẻ mặt anh rạng ngời, tóc bay ngược gió. Khi Eagleman hỏi anh cú rơi thấy thế nào, anh giơ hai cẳng tay ra phía trước: các ngón tay anh đang run rẩy không sao cưỡng nổi.
Eagleman và Chess Stetson, sinh viên đã tốt nghiệp của anh, chạy vòng đầu của những thí nghiệm SCAD vào năm 2007, với hai mươi người tham gia thí nghiệm. Họ lập trình cho máy đếm nhịp tri giác nhấp nháy những con số của nó nhanh hơn một chút so với tốc độ đọc được chúng. Rồi họ bố trí một người quan sát trên đỉnh tháp, để chắc chắn những người chơi có nhìn vào máy đếm nhịp khi họ rơi, và một người khác ở dưới mặt đất. Sau đó những người chơi sẽ báo lại những con số họ đọc được trên máy đếm nhịp, rồi lấy một đồng hồ bấm giây và trở lại thí nghiệm trong tâm trí họ, đếm thời gian từ khởi đầu đến kết thúc. Eagleman đã biết sự rơi kéo dài bao lâu trong thời gian thực; bây giờ anh muốn biết nó được cảm thấy bao lâu. April lúc đầu quá bồn chồn nên không làm được, nhưng sau đó cô hít một hơi thở sâu và thử lại lần nữa. Khi cô mở mắt ra, chiếc đồng hồ bấm giây chỉ quá ba giây rưỡi – khoảng ba mươi phần trăm dài hơn thời gian rơi thực tế.
Việc cảm nhận thời gian của April là điển hình: trung bình những người tham gia thí nghiệm của Eagleman ước lượng thời gian rơi của họ lâu hơn thực tế ba mươi sáu phần trăm. Tuy nhiên, anh ngạc nhiên thấy tốc độ cảm nhận của họ không thay đổi khi họ rơi: cho dù họ nhìn chằm chằm vào máy đếm nhịp căng thẳng như thế nào, họ cũng không thể đọc nổi những con số. “Theo một nghĩa nào đó, điều này thú vị hơn cái mà ta nghĩ là đang diễn ra.” Eagleman nói với tôi. “Nó gợi ý rằng thời gian và trí nhớ quyện chặt với nhau đến mức không thể tách chúng ra.”
 Một trong những chỗ dành cho xúc cảm và trí nhớ trong não là hạch hạnh (amygdala), anh giải thích. Khi có điều gì đó đe dọa cuộc sống của bạn, vùng này dường như bị kích thích quá độ, ghi nhận mọi chi tiết cuối cùng của kinh nghiệm. Trí nhớ càng chi tiết, thì khoảnh khắc đó dường như càng dài. “Điều này giải thích tại sao chúng ta nghĩ thời gian chạy nhanh hơn khi chúng ta già đi,” Eagleman nói – tại sao những mùa hè của tuổi thơ dường như kéo dài vô tận, còn tuổi già thì trôi tuột đi khi chúng ta ngủ lơ mơ. Thế giới càng trở nên thân thiết gần gũi, thì bộ não của bạn càng ghi lại ít thông tin, và thời gian càng có vẻ trôi nhanh hơn.
Giống như những bình luận của Eagleman về những người lùn, nghiên cứu SCAD làm trào lên một cơn lũ ào ạt những thư từ khi nó được công bố, bởi Thư viện Khoa học Công cộng, cách đây bốn năm. “Nó giống như một cơn sóng chấn động tự sinh sôi nảy nở,” anh nói với tôi. “Tôi nhận được những e-mail từ những người lính nhảy dù, cảnh sát, và những tay lái xe đua, những người bị tai nạn xe máy và tai nạn ô tô.” Một bức thư từ một người trước đây phụ trách nhà bảo tàng, ông này chẳng may bị một chiếc bình đời Minh rơi trúng người. “Ông ấy nói vật ấy rơi với thời gian vô tận.” Eagleman nói. Trong vòng vài năm sau đó, anh có kế hoạch nghiên cứu những câu chuyện – cho đến nay có đến khoảng hai trăm – bằng cách trở về với các tác giả với một bảng câu hỏi. Trong khi đó, thật dễ dàng lần ra những đầu mối chung – không chỉ cảm giác thời gian chậm lại, mà cả sự bình thản kỳ lạ và một thoáng siêu thực mà anh nhớ từ cú rơi hồi nhỏ. Trong một câu chuyện, một người đàn ông bị ném ra khỏi chiếc xe mô tô của anh ta sau khi tông phải một chiếc ô tô. Khi anh bị trượt trên đường, có lẽ vào cõi chết, anh ta nghe thấy chiếc mũ bảo hiểm của anh ta nện mạnh xuống nền đường nhựa. Âm thanh ấy có một nhịp điệu quyến rũ, anh ta nghĩ, và anh cảm thấy bản thân mình đang soạn một khúc ca ngắn cho nó trong đầu anh ta.
“Thời gian là một thứ cao su” Eagleman nói. “Nó dãn ra khi anh thật sự bật sáng các nguồn của bộ não, và khi anh nói, ‘Ô, ta nắm được rồi, mọi sự đúng như mong đợi,’ thì nó co lại.” Thí dụ hay nhất cho điều này là cái gọi là hiệu ứng người lập dị - một ảo ảnh thị giác mà Eagleman đã cho tôi xem trong phòng thí nghiệm. Nó bao gồm một loạt những hình ảnh đơn giản lóe lên trên một màn hình máy tính. Phần lớn thời gian, cùng một hình ảnh được lặp đi lặp lại nhiều lần: một chiếc giầy thô mầu nâu. Nhưng thỉnh thoảng lại có một bông hoa hiện lên thay thế. Đối với tôi, sự thay đổi này là cả về thời gian lẫn nội dung: bông hoa lưu lại trên màn hình lâu hơn chiếc giầy. Nhưng Eagleman cam đoan với tôi rằng các hình ảnh xuất hiện với cùng độ dài thời gian. Chỉ có điều khác là mức độ chú ý của tôi đối với chúng. Chiến giầy, trong lần xuất hiện thứ ba và thứ tư của nó, chỉ vừa đủ gây nên một ấn tượng. Bông hoa, hiếm hơn, nấn ná và tươi nở, giống như những mùa hè tuổi thơ.



Trước khi Francis Crick chết năm 2004, ông cho Eagleman một lời khuyên: “Nghe này” ông nói. “Người nguy hiểm là người chỉ có một ý tưởng duy nhất, bởi vì anh ta sẽ chiến đấu và chết cho nó. Cách làm khoa học thật sự là hãy đến với thật nhiều ý tưởng, và phần lớn chúng sẽ là sai.”
Eagleman có lẽ đã ôm ấp những lời lẽ ấy hơi quá tha thiết trong trái tim anh. Khi tôi ở Houston, anh có hơn một chục công trình nghiên cứu tiến hành đồng thời, và dùng thời gian của mình chạy như đua từ phòng thí nghiệm đến giảng đường đến máy MRI đến khu mổ sọ não và quay trở lại. “Chúng tôi đang dùng trang thiết bị toàn bộ của khoa thần kinh hiện đại,” anh nói với tôi. Một trong chín thành viên phòng thí nghiệm của anh đang nghiên cúu các rễ thần kinh của sự thấu cảm; người khác đang tập trung vào tự do ý chí. Hai người đang nghiên cứu những rối loạn trong cảm nhận thời gian của bệnh tâm thần phân liệt; một người đã giúp tạo ra cơ sở dữ liệu về synesthete[8] tốt nhất thế giới. Eagleman có những dự án nghiên cứu về chứng động kinh, sự giả mạo, việc ra quyết định tại tòa án, và những khiếm khuyết trong cảm nhận thời gian của những cựu chiến binh ở Iraq và Afghanítan mà não bị tổn thương, cùng với bốn cuốn sách có mức độ hoàn thành khác nhau. Đầu tháng Tư, Eagleman được nhận khoản trợ cấp nghiên cứu Guggenhiem cho công trình của anh về cảm giác kèm (synesthesia). Tháng Năm, Pantheon sẽ xuất bản “Incognito,”[9] (kẻ giấu mặt), luận điểm nổi tiếng của anh về tiềm thức.
“Tôi đã nhắc đến luận văn của tôi về loài sâu độc cateppilar chưa nhỉ?” một hôm anh hỏi tôi. Anh lôi ra một hình ảnh từ máy tính của anh về một cái gì trông như con giòi trong bộ áo da lông thú trông rất kiểng. Nó là một loài sâu độc, anh cam đoan với tôi. Anh biết điều đó vì có một con loại này đã bò lên chân anh cách đây bẩy năm. “Có cảm giác như ai đó đã rót một cốc axit lên cẳng chân tôi,” anh nói. Đêm ấy ở bệnh viện, một bác sĩ trực cấp cứu đã gọi anh là kẻ nhát gan. “Anh đã bị rệp cắn bao giờ chưa?” anh ta nói. Bởi vậy Eagleman để trả lời, đã dùng mấy năm sau đó lật giở tất cả những báo cáo về những trường hợp đã biết về độc tính của loài sâu độc này. Anh đã lập ra bản đồ đầu tiên về sự phân bố loài sâu độc ở Bắc Mỹ và đồ thị của một trăm tám mươi tám cuộc tấn công, chia theo từng tháng và theo triệu chứng. Rồi anh xuất bản báo cáo của mình, chú giải cực kỳ kỹ lưỡng, trong tạp chí chuyên khoa Điều trị Độc. “Hóa ra tôi là chuyên gia thế giới về lĩnh vực này” anh cười toác nói với tôi.
Các đồng nghiệp của Eagleman đôi khi cằn nhằn rằng anh hay đi quá xa, hay tìm cách nổi tiếng. Nhưng anh có một kỷ lục ấn tượng về những ấn phẩm được bạn bè xem xét lại, và ngay cả những dự án kỳ quặc nhất của anh cũng chịu sự khảo sát cực kỳ kỹ lưỡng. “Dữ liệu là cứng nhắc” Trưởng khoa Buônmano nói với tôi. “Các cách lý giải đôi khi có thể hơi mơ màng một tí.” Vấn đề lớn nhất của Eagleman là thời gian, theo nghĩa lý thuyết cũng như thực tiễn. Anh ngủ mỗi đêm bẩy tiếng, nhưng làm việc mỗi tuần bẩy ngày, hầu như không có giờ nghỉ. (Kỳ nghỉ gần đây nhất của anh là cách đây ba năm, một kỳ nghỉ cuối tuần ở Hawaii sau lễ cưới) Trong nhiều năm Eagleman là người độc thân kỳ cựu và một kẻ hẹn hò hàng loạt[10] như một người bạn của anh mô tả, với một căn nhà gỗ bé xíu mà anh thích gọi là Tổ Đại bàng (Eagle là đại bàng). Sau đó, tháng Mười vừa qua, anh làm mọi người ngạc nhiên bằng việc cưới Sarah Alwin, một nghiên cứu sinh tiến sĩ đang nghiên cứu về điện sinh lý học của thị giác tại Đại học Tổng hợp Texas ở Houston. “Chúng tôi hợp với nhau tuyệt vời,” anh nói với tôi. “Cô ấy cũng nghiền công việc như tôi.”  Họ mong có con sớm, trước khi DNA trong tinh trùng của anh bị sa sút quá nhiều vì tuổi tác. “Trước kia tôi là một kẻ hay báng bổ hôn nhân,” anh nói. “Bây giờ tôi thậm chí cũng muốn đẻ!”
 Eagleman không bao giờ mất đi cái khuynh hướng tuổi thơ tự quan sát mình từ một khoảng cách, cư xử với bộ não của chính mình như một đối tượng nghiên cứu. Khi chúng tôi cùng nhau bước đi quanh qua quanh lại trong những hành lang mê cung của Baylor, anh tin cậy giao phó cảm giác về phương hướng của mình cho một con cá ngựa xinh xắn. Và khi chúng tôi ngồi vào bàn ăn trong một tiệm ăn, anh phàn nàn rằng anh thích ăn “một thanh chất dinh dưỡng nén lại” hơn. Về những nghiên cứu khác biệt nhau một cách lạ lùng: nó chỉ là một dạng khác của hiệu ứng người lập dị, anh nói với tôi. Bằng cách nhảy cóc từ đề tài này sang đề tài khác, anh buộc bộ não của anh phải tập trung chú ý vào mỗi vấn đề hơn nhiều so với sự thân thuộc cho phép anh chú ý. “Emerson đã làm đúng như thế” anh nói. “Ông ấy có một chiếc mâm xoay[11] với nhiều dự án trên đó. Khi ông bắt đầu chán, ông chỉ việc quay nó và bắt đầu làm một cái gì khác.”
Đầu mùa đông này, tôi tham gia với Eagleman ở London trong dự án gần đây nhất của anh: nghiên cứu cảm nhận thời gian ở những người đánh trống. Nghiên cứu cảm nhận thời gian có xu hướng được thực hiện trong những nhóm người tham gia thí nghiệm lựa chọn ngẫu nhiên hay những bệnh nhân có não bị tổn thương hay rối loạn. Họ cho chúng tôi một cảm giác tốt về những khả năng của con người trung bình mà không phải là những cực đoan: chỉ là vấn đề cảm nhận thời gian của một người có thể chính xác đến mức nào? Trong khoa thần kinh học, người ta thường kiếm những con vật giỏi nhất về một thứ gì đó,” Eagleman nói với tôi, trong một bữa tối tại một tiệm ăn Ý ở Notting Hill. “Nếu là trí nhớ, hãy chọn loài chim biết nói, nếu là tài đánh hơi, hãy chọn chuột hay chó. Nếu tôi nghiên cứu về thể dục, tôi muốn tìm một anh chàng có thể chạy một dặm trong bốn phút. Tôi sẽ không muốn một lũ học sinh mũm mĩm.”
Ý tưởng nghiên cứu những người đánh trống đến từ Brian Eno, nhà soạn nhạc, người lập kỷ lục và cựu thành viên ban nhạc Roxy Music. Qua nhiều năm, Eno đã làm việc với U2, David Byrne, David Bowie, và vài người trong số những nhạc công tài năng nhất thế giới về nhịp điệu. Anh có một studio (phòng thu âm) cách đó vài khối nhà, trong một chuồng ngựa đua được cải tạo trong một ngõ cụt trải sỏi, và đã gửi một e-mail mời một số tay trống đến tham gia vào nghiên cứu của Eagleman. “Vấn đề là: những tay trống có các bộ não khác với người thường chúng ta không?” Eno nói. “Bất kỳ ai đã từng làm việc trong một ban nhạc đều chắc rằng họ có (những bộ não đặc biệt)”.
Eno gặp Eagleman lần đầu cách đây hai năm, sau khi một nhà xuất bản quen anh đưa cho anh một cuốn truyện ngắn của Eagleman, có tên là “Sum.” Bắt chước những truyện giả tưởng của Borges và Calvino, “Sum”  là sản phẩm tự nhiên của các mối quan tâm khoa học của Eagleman – một vòng xoay khác của chiếc mâm xoay đã đưa trở lại chủ đề thời gian. Mỗi chương trong bốn mươi chương của nó là một loại thí nghiệm tư duy, mô tả một dạng khác nhau của thế giới bên kia. Eagleman thiết lập một loạt những điều kiện ban đầu, sau đó để cho các hàm ý mở ra một cách logic. Trong một chương, người chết chịu số phận phải tiêu cái vĩnh cửu bằng cách chơi từng mẩu nhỏ trong những giấc mơ lúc còn sống. Trong một chương khác, họ sống chung trong cõi âm với tất cả các phiên bản có thể  có của họ - từ những thất bại nản lòng nhất đến những thành công vui cuồng nhất. “Tôi là người thực lòng chỉ muốn cái tối thiểu. Tôi thích những tư tưởng lớn, ngắn gọn,” Eno nói. “Tôi hỏi bạn tôi đã xuất bản nó khi nào, và anh ấy nói ‘Tháng Hai tới.’ Chúng tôi cãi nhau to. Tôi nói ‘vậy thì mang cái của nợ của cậu đi!’”
“Sum” đã phải mất nhiều năm mới tìm được nhà xuất bản – Eagleman bắt đầu viết nó khi còn đang học đại học – nhưng nó đã nhanh chóng tìm được độc giả[12]. Ở Anh, nó được các nhà xuất bản rất khác xa nhau ca ngợi, như Nature (“nghiêm ngặt và giàu tưởng tượng”) và Obsever, nơi tác giả Geoff Dyer gọi nó là “độc đáo một cách đáng ngạc nhiên” và thấy trong nó “phẩm chất gây sững sờ, không thể giải thích nổi của thiên tài.” Eagleman đã xem xét việc xuất bản nó dưới một bút danh, nghĩ rằng anh sẽ bị lăng mạ bởi cả các nhà khoa học lẫn những người đọc tôn giáo. Ngược lại, cả hai nhóm này nhận quyển sách về nhóm mình. Các nhà vô thần như Philip Pullman viết những lời giới thiệu nhiệt tình, trong khi các biên tập viên của một trang mạng có nhiều tín ngưỡng khác nhau vinh danh nó như là một trong những sách tâm linh hay nhất của năm 2009. Tại một nhà thờ ở Massachusetts, các thành viên của giáo đoàn lần lượt thay nhau đọc các chương của nó từ trên bục giảng kinh.
Eno và Eagleman bắt đầu trao đổi e-mail từ đó, và Eno đã đề nghị rằng họ cộng tác với nhau trên một sân khấu đọc cuốn sách này. Buổi ra mắt đầu tiên ở Nhà hát Opera Sydney vào tháng Sáu năm 2009, với ambient score do Eno làm (một phiên bản opera đầy đủ, với âm nhạc của Max Richter, sản xuất bởi Nhà hát Opera Hoàng gia, dự kiến sẽ ra mắt ở London năm 2012.) chính trong khi ở đó Eno đã kể với Eagleman câu chuyện gây cảm hứng cho nghiên cứu về những người đánh trống.
“Lúc đó tôi đang làm việc với Larry Mullen, Jr., về một trong những album của U2,” Eno nói vói tôi. “Gọi nó là ‘All That You Don’t Leave Behind,’ hay là gì cũng được.” Mullen đang chơi trống cho ghi âm của một ban nhạc, và một click track – một tiếng động do máy tính tạo ra nhằm giữ cho tất cả những phần overdubbed (lồng tiếng lệch) được đồng bộ. Mullen nghĩ rằng click track bị tắt mất một chút: nó là một phần của cú đập đằng sau phần còn lại của dàn nhạc. “Tôi nói, ‘Không, không thể như thế được Larry ạ,’” Eno nhớ lại. “Tất cả chúng tôi làm việc cho track đó, bởi vậy, nó phải đúng.” Nhưng anh ta nói, “Xin lỗi, đơn giản là tôi không thể chơi theo nó.’”
Cuối cùng Eno đã điều chỉnh click thỏa mãn được Mullen, nhưng chẳng qua cũng chỉ là để chiều lòng anh ta. Chỉ sau khi người đánh trống đã đi khỏi, Eno mới kiểm tra lại track ban đầu và nhận ra Mullen đã đúng: tiếng click tắt khoảng sáu mili giây. “Chuyện là,” Eno nói với tôi, “khi chúng tôi đang điều chỉnh nó có lúc tôi đã đưa nó đi quá tiếng đập hai mili giây, và anh  nói, ‘không, anh phải quay lại một chút,’ Điều ấy làm tôi vô cùng sửng sốt.”
Cuối buổi sáng hôm ấy Eagleman đến studio của Eno, mang theo một đôi laptop và monitor EEG (máy đo điện não đồ) không dây. “Cái này tuyệt lắm” anh vừa nói vừa lấy bộ monitor ra khỏi hộp xốp. “Ở sân bay họ kiểm tra an ninh đã rà soát toàn bộ người tôi.” Anh kẹp EEG lên đầu – trông nó gống như một con nhện khổng lồ đang quặp chặt ở đó – rồi theo dõi khi mười sáu đường sóng xuất hiện trên màn hình thành những dải màu. Mỗi đường biểu thị hoạt động điện tại những điểm khác nhau trong não của anh. Những người đánh trống sẽ đeo cái này trong khi thực hiện một loạt bốn phép thử, Eagleman giải thích. Các phép thử giống như những game video đơn giản, do phòng thí nghiệm của anh thiết kế để đo các dạng khác nhau của cảm nhận thời gian: giữ một tiếng đập đều, so với hai giọng, đồng bộ một tiếng đập với một hình ảnh, và so sánh nhịp độ thính giác và thị giác với nhau. “EEG có thể bắt được một phần hai mươi ngàn giây,” anh nói. “Thậm chí hoạt động của não không nhanh đến thế, bởi vậy chúng tôi đã lấy mẫu quá dư. Nhưng tại sao không?”
Trong khi Eagleman lập các khu vực thí nghiệm trong hai phòng, Eno hối hả đi quanh studio dọn dẹp cho gọn ghẽ, nói chuyện với những con mèo của anh, và pha trà. Chuồng ngựa đã được cải tạo thành một không gian rộng rãi thoáng mát sáng sủa, với những cầu thang uốn lượn dẫn lên vựa cỏ khô trước đây, bây giờ chất đầy những máy tính nối mạng. Góc trong cùng đặt một cặp độc huyền cầm to tướng: nhạc cụ điện một dây do Eno thiết kế, làm bằng những dây buộc đường sắt. Eno cạo râu nhẵn nhụi và vận toàn đồ đen. Anh có khuôn mặt tròn, tinh quái .
“Những người đánh trống rất khó kiểm soát,” anh nói, nhét mấy tấm thiệp Giáng Sinh vào các phong bì. “Trong nhiều ngày tôi không nghe thấy chuyện gì cả. Rồi bỗng nhiên mọi người quyết định kéo đến, và mang theo bạn bè của họ. Bởi vậy chúng ta có thể có một trận lụt những tay trống. Hay sẽ chẳng có một ai hết.” Anh hơi lo lắng rằng họ có thể cảm thấy đói, hoặc chán. (“Họ có nhiều khả năng kéo đến nếu có một cảnh  nào đó đang diễn ra,” anh viết cho Eagleman cách đây mấy tuần.) Bởi vậy anh cử một người trợ lý đi mua bánh kẹo các loại, và đưa ra “các trò giải trí” để những người đánh trống chơi, kể cả một cái trống điện tử.
“Họ càng cảm thấy trong chuyện này có sự đua tranh, càng tốt,” Eagleman nói. “Điều quan trọng trong đó là bảo đảm họ tập trung chú ý.”
“Cái đó khó đấy,” Eno trả lời.
Người chơi đầu tiên lững thững bước vào lúc giữa trưa, một anh chàng lôi thôi lếch thếch, mặt đỏ, ngoáy hông, tên là Daniel Maiden-Wood, người chơi trống cho ca sĩ Anna Calvi. Khoảng giữa buổi chiều, chỗ ấy đầy ắp người. Larry Mullen, Jr., đang đi du lịch Australia, nhưng thành phần làm nên phần nhịp điệu xuất sắc đang nằm ườn ra các sofa và ghế dài của Eno. Trong số đó có các nhạc công jazz, những người chơi bộ gõ Cuba-Phichâu, và tay trống cho Razolight, một ban nhạc Anh với một cặp album đã bán được trên hai triệu bản (album đa bạch kim). Will Champion, của Coldplay, bước vào trông như một anh thợ rừng đến không đúng lượt. (Khi anh ta bỏ chiếc mũ sợi ra để lộ cái đầu lớn hình viên đạn, Eagleman nói nó dùng EEG thì thật tuyệt.) Champion đã làm việc với Eno trong “Viva la Vida,” album nằm trên đỉnh bảng xếp hạng năm 2008 cả ở Anh và Mỹ, củng cố địa vị của Coldplay như nhóm nhạc rock ăn khách  nhất thế giới. “Anh ấy giống như một chiếc máy đánh nhịp sống vậy,” Eno nói. “Nếu anh hỏi anh ấy: ‘Bảy mươi tám phách một phút là thế nào?’ anh ấy sẽ đi tap, tap, tap. Và anh ấy dứt khoát làm được.”
Sự ganh đua thân ái mà Eagleman đã tưởng tượng giữa các tay chơi không bao giờ hoàn toàn thực hiện được. (Anh có thể đã gặp may mắn hơn nếu có một phòng đầy các ca sĩ hàng đầu.) Ngược lại, họ nói những chuyện đùa của người đánh trống. Anh làm thế nào biết khi có một tay trống đến trước cửa nhà anh? Tiếng gõ cửa càng lúc càng nhanh càng dồn dập hơn. Chúng ta đã ai nghe nói một tay trống định tự tử chưa nhỉ? Hắn ta lao mình đằng sau một đoàn tàu. Eno cả đời ghi âm phần trống, nhưng anh kêu rằng anh bị nghi ngờ về nhịp điệu. “Tôi bị cái chứng mà bạn tôi là Leo Abrahams gọi là sự lệch của bọn da trắng – cái khuynh hướng đánh sớm của những tay chơi da trắng,” anh nói. “Nó là mười một mili giây. Nếu anh ghi âm trễ đi chừng ấy, thì nghe nó hay hơn.”
Tuy nhiên, khi hai tay trống lượn lờ qua các điểm thử, đã thấy rõ một chút tổn thương đến lòng tự hào nghề nghiệp. Các tay trống không gặp trở ngại gì trong việc so sánh một tone hay giữ tiếng gõ đều, nhưng các phép thử thị giác về cảm nhận thời gian xúc phạm đến họ. Eagleman đã hứa rằng các kết quả sẽ không gắn với tên người, nhưng anh đã lập trình cho mỗi đợt thử kết thúc bằng một câu đánh giá vui “Anh là ngôi sao rock,” cho những ai đạt điểm trong hai mươi lăm phần trăm cao nhất; “Sẵn sàng cho lần sau,” cho một phần tư tiếp theo, “Sẵn sàng cho đêm open-mike[13]” cho nhóm thứ ba, và “Quay về trại hè[14] ” cho phần tư thấp nhất. Không ai muốn về trại hè cả.
Cảm nhận thời gian của người đánh trống là sự kiện vật lý, họ nhất trí, giống như khiêu vũ vậy. Gõ một nhịp trên một trackpad lấy đi mất của nó tất cả mọi vận động hoặc trí nhớ cơ bắp. Tuy nhiên nhiều người trong bọn họ chơi những click track này ngay cả trên sân khấu, và cảm giác của họ về nhịp đã bị điều kiện hóa thành hệ thống bởi những năm trong studio. Hip-hop là tám mươi đến chín mươi phách trong một phút, họ nói. Afrobeat vào khoảng một trăm mười. Disco bị mắc vào một trăm hai mươi dai dẳng đến mức anh có thể chạy hết bài hát này sang bài hát khác mà không hề lỡ mất một phách. “Không hề có một chút lầm lạc,” Eno nói. Trong cơn cuồng nhiệt biểu diễn, các tay trống đôi khi đánh dồn dập gấp gáp hay ngưng một chút để cho hợp với tâm trạng. Nhưng khi click- track trở thành phổ biến thì những sự đi lạc như thế phải được tái tạo một cách nhân tạo. Champion thích thú với việc Coldplay gần đây đã lập trình tỉ mỉ những “bản đồ nhịp độ” cho năm live show của nó, với những click track được thiết kế để tăng tốc hay cho chậm lại trong một bài hát. “Nó tái tạo sự kích động cho một track không quá cứng nhắc.” Champion nói.
Khi đến lượt anh làm thử nghiệm của Eagleman, Champion phải dùng máy tính nhiều gần gấp đôi người khác, cuối cùng tinh thần đua tranh đã nổi lên trong anh. Anh không cần phải lo lắng. Các kết quả của Eagleman sau đó cho thấy “một sự khác biệt khổng lồ về mặt thống kê,” như anh diễn tả, giữa cảm nhận thời gian của những người đánh trống và những người tham gia thí nghiệm khác được anh chọn một cách ngẫu nhiên ở Houston để đối chứng. Khi được yêu cầu giữ một tiếng đập đều, chẳng hạn, những người đối chứng dao động trung bình ba mươi lăm mili giây; những tay trống giỏi nhất chỉ lệch đi dưới mười. Eno nói đúng: các tay trống có những bộ não khác người thường. “Họ vượt  trội trên những người đối chứng,” Eagleman nói. Nhiệm vụ sau đó của anh là dùng những dữ liệu EEG để tìm ra khu vực hoạt động nhất của bộ não những người đánh trống, rồi cho kích thích từ đột ngột vào chúng để xem anh có thể phá vỡ sự cảm nhận thời gian của họ không. “Bây giờ khi chúng tôi đã biết rằng có một cái gì đó ở họ khác biệt về phương diện giải phẫu, chúng tôi muốn thử xem chúng tôi có thể làm nó rối lên không,” anh nói.
Việc họ có muốn tham gia lại hay không là một vấn đề khác. Champion trông có vẻ như người hơi bị no đòn sau khi thử. “Không thể không cảm thấy giống như một kiểu đánh giá cá nhân,” anh nói trong khi mặc áo choàng vào. “Hy vọng rằng nó sẽ có ích cho một mục đích lớn hơn. Nhưng anh vẫn muốn cảm thấy như anh không còn bé bỏng gì nữa.” Anh nhún vai. “May sao, nó bảo tôi rằng tôi nên làm một ngôi sao nhạc rock. Thật tuyệt khi biết rằng điều ấy không bị bỏ phí.”
Đã gần nửa đêm khi tôi cùng với Eagleman cuối cùng rời khỏi studio của Eno, các laptop và EEG kẹp dưới cánh tay. Các đường phố có cảm gác ngột ngạt và gần ngay bên dưới bầu trời không sao; các vỉa hè lạo xạo tuyết. Cuốc bộ về khách sạn của chúng tôi, tôi nghĩ đến vô số tín hiệu cảm giác đang lao nhanh quanh tôi, ánh le lói của những ngọn đèn đường xa cửa sổ các quán rượu, tiếng rầm rầm của xe điện ngầm dưới đất, mùi khói của củi cháy và mùi bia tràn, và dạng cong của đã cuội dưới chân tôi. Từ hàng tỷ những mẩu vụn như thế não của tôi đã chắp lại thành câu chuyện đơn giản này – một đêm mùa đông ở Notting-Hill, và tôi hạnh phúc vì có nó.
Có sự cảm nhận thời gian của một người đánh trống sẽ như thế nào nhỉ? Tôi tự hỏi. Ta sẽ nghe được nhịp điệu ẩn tàng của cuộc sống hàng ngày, những nhấn lệch (syncope) của đường phố ư? Khi tôi hỏi những tay trống ở studio của Eno điều này, họ dường như thấy khả năng của họ phiền nhiễu như một năng khiếu. Giống như một giọng hát tuyệt hảo, nó làm tình làm tội người sở hữu nó khi phải nghe những nốt nhạc hát sai và tiếng còi ô tô nhạt nhẽo, sự cảm nhận hoàn hảo về thời gian cũng có thể khiến cho một người đánh trống nhạy hơn với chứng loạn nhịp của thế giới, và những mẫu lặp lại nhàm chán, Eagleman nói – với sự rung rinh của màn hình máy tính và ánh đèn huỳnh quang. Thực tại, bị tước mất một tiếng đập thừa trong đó bộ não phối âm các tín hiệu của nó, không nhất thiết là một nơi sống động hơn. Nó chỉ đầy rẫy những sô truyền hình được lồng tiếng tồi tệ.
“Chúng ta bị kẹt trong thời gian như cá ở trong nước,” Eagleman nói, quên lãng các luồng của nó cho đến khi một chiếc bong bóng trôi qua. Cách đó thường là tốt nhất. Anh đã dùng mười năm qua chăm chú nhìn thế giới thông qua những kẽ hở như thế trong nhận thức của chúng ta, anh nói. “Nhưng đôi khi anh đi quá sâu vào thực tại đến nỗi anh muốn lui lại. Đôi khi, trong những giây phút thoải mái, tôi nghĩ nếu tôi phát hiện ra rằng tất cả chỉ là một ảo ảnh, thì sao nhỉ?” Anh cảm thấy điều này sâu sắc nhất với những bệnh nhân tâm thần phân liệt của anh, những người thường có xu hướng thực hành tồi tệ trong những thí nghiệm về cảm nhận thời gian. Anh ngờ rằng, những tiếng nói trong đầu họ không khác với những độc thoại nội tâm ở những người khác; bộ não của họ chỉ xử lý chúng không đúng trình tự, do đó những ý nghĩ có vẻ như của một người nào khác. “Chỉ cần một cái véo nhỏ vào trong não, sự thay đổi nhỏ xíu trong nhận thức,” anh nói, “thì những gì anh thấy là thực sẽ không thực đối với người khác.”
Eagleman được nuôi dạy như một đứa trẻ Do thái thế tục và trở thành một người vô thần trong lứa tuổi thiếu niên. Tuy nhiên gần đây anh đã bắt đầu thích gọi mình là một kẻ Khả Dung “Possibilian” – một tên gọi do anh tự nghĩ ra. Khoa học đã dạy anh biết nghi ngờ những cái chắc chắn của vũ trụ, anh nói với tôi. Từ sự phức tạp khôn lường của mô não – “về thực chất là một chất liệu điện toán xa lạ” đến bí  mật của vật chất tối (dark matter), chúng ta biết quá ít về trí tuệ của chúng ta và cái thế giới xung quanh ta để khăng khăng làm một nhà vô thần không khoan nhượng, anh nói. “Và chúng ta biết quá nhiều để đắm mình vào một câu chuyện tôn giáo nhất định.”  Tại sao không đặt ham mê vào những lựa chọn khác? Tại sao chúng ta không tự tưởng tượng, như anh đã làm trong tác phẩm “Sum” của mình, chúng ta là những mẩu nhỏ của một phần cứng được làm thành mạng lưới, trong một chương trình vũ trụ, hay những mảnh nhỏ của một cơ thể siêu phàm, hay như một khả năng bất kỳ trong một nghìn khả năng khác, và sau đó nghiệm lại những ý tưởng ấy với những chứng cứ sẵn có? “Khí chất khoa học có phần là sự bao dung này, cùng một lúc giữ nhiều giả thuyết trong trí óc,” anh nói. “Như Voltaire đã nói, cái không chắc chắn là một lập trường khó chịu. Nhưng cái chắc chắn là một lập trường phi lý.”
Một người theo thuyết bất khả tri tầm thường có thể đã để mọi chuyện dừng ở đó. Nhưng Eagleman, như thường lệ, đã đưa sự vật đi một bước xa hơn. Cách đây hai năm, trong một cuộc phỏng vấn trên đài truyền thanh, anh đã tuyên bố bản thân anh là người sáng lập của một phong trào mới. Thuyết Khả dung mới chỉ có một thành viên, anh nói, nhưng anh hy vọng nó sẽ hấp dẫn nhiều người. “Tôi không nói đây là câu trả lời,” anh nói với tôi. Tôi chỉ đang tán dương tính rộng lớn của sự ngu dốt của chúng ta.” Lời tuyên ngôn chỉ có một nửa nghiêm túc, bởi vậy Eagleman bị sốc khi anh từ phòng thí nghiệm về nhà vào một buổi khuya, anh thấy hộp điện thư của anh đầy những e-mail, một lần nữa, với những lời nhắn từ các thính giả. “Anh biết không?” một bức thư viết. “Tôi cũng là một người Khả Dung đây!” Phong trào này từ đó đã lôi cuốn báo chí từ những nơi xa xôi như Ấn Độ và Uganda. Theo thống kê cuối cùng, gần một nghìn thành viên Facebook đã chuyển những niềm tin tôn giáo của họ sang Thuyết Khả Dung.
Francis Crick, vị thần bảo trợ cho những thử nghiệm không chắc thành công, có lẽ đã tán thành


[1]Paul Jackson Pollock (28 tháng 1, 1912 – 11 tháng 8, 1956) là một họa sĩ nổi tiếng người Mỹ.
2] Kỷ (aeon) cỡ triệu năm
[3] Khoảng phần nghìn giây
[4] Di chuyển mắt đột ngột
[5] Đoàn toa tàu lộ thiên chạy trên những đoạn đường sắt có những đoạn rất dốc và những chỗ ngoặt gấp (trò chơi cảm giác mạnh)
[6]Vùng não điều khiển thân nhiệt, đói, khát..
[7] Thiết bị thay cho chuột ở máy tính xách tay
[8] Người có cảm giác kèm.
[9] Cuốn này đã ra mắt ở Anh trong tháng Tư và sẽ phát hành ở Mỹ trong tháng Năm (2011)
[10] Những người luôn luôn cảm thấy cần có người yêu. Họ thường xuyên hẹn hò (bạn trai hay bạn gái) nhanh chóng thất vọng, và đi tìm người khác..
[11] Như trong các tiệm ăn của người Tàu
[12] Cuốn này đã được dịch ra 23 thứ tiếng.
[13] Cuộc trình diễn của những người nghiệp dư, thường không có thử giọng trước (như trong các phòng trà..)
[14] band camp: trại hè âm nhạc của sinh viên
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét