Thứ Tư, 21 tháng 1, 2015

Lão Shadrach Cohen Mỹ hóa


Bruno Lessing (1870- 1940)
HIẾU TÂN dịch

Một con giun mà quằn lên thì chẳng theo qui tắc nào cả. Ấy thế nhưng, hầu như mọi con giun quằn lên đều rất bất ngờ. Lão Shadrach Cohen cũng thế.
Lão có hai con. Một đứa là Abel, và thằng kia, Gottlieb. Chúng rời nước Nga năm năm trước cha, mở một cửa hiệu trên phố Hester bằng tiền lão cho chúng. Vì những lí do mà chỉ những người buôn bán hiểu được, chúng quản lí cửa hiệu mang tên người cha, và, khi công việc làm ăn đã nên khá giả, thấy có cơ hội đầu tư thêm nhiều vốn sẽ có lợi hơn, chúng viết thư mời người cha thân yêu sang đất nước này.
“Ở đây chúng con có ngôi nhà xinh đẹp cho cha. Cha con ta sẽ sống hạnh phúc bên nhau.”

Chủ Nhật, 18 tháng 1, 2015

George Sand (1804-1876)


Chân dung George Sand năm 34 tuổi. Auguste Charpentier vẽ, 1838 
Vào thời kì tiểu thuyết lãng mạn (với Những Bí mật thành Paris của Eugène Sue và những chương đầu bản thảo Những người khốn khổ của V.Hugo) lấy cảm hứng từ những vấn đề xã hội và nhân đạo, George Sand chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các học thuyết của các nhà tư tưởng như Michel de Bourger, Lamennais, và nhất là của nhà xã hội chủ nghĩa Pierre Leroux (x. trg 328) bản thân George Sand, bắt đầu từ năm 1840 cũng chọn lối viết tiểu thuyết mơ mộng về những chủ đề sẽ củng cố sự dấn thân của bà như một nữ chiến sĩ: đoàn kết hữu ái giai cấp, sự công bằng trong phân chia đất đai, chủ nghĩa hòa bình. 
Nổi bật nhất về lựa chọn tư tưởng hệ trong những sách của bà là Bạn đồng hành Vòng quanh nước Pháp (Le compagnon de Tour de France - 1840), Người thợ xay bột ở Angibault (Le meunier d’Angibault - 1845), và cả Tội lỗi của ông Antoine (Le Péché de Monsieur Antoine- 1847). Theo lời Michel Raimond, “Giá trị của những tiểu thuyết này không phải ở những đoạn nghị luận nặng nề về vấn đề xã hội, mà ở những cảm nhận về thời đại của mình, là những bước mò mẫm ban đầu của một nền văn chương đại chúng. Những tiểu thuyết ấy nếu không thành công, cho dù được đăng nhiều kì trên báo, trong việc làm cho văn chương thấm vào dân chúng, thì cũng đã đánh dấu, thường là một cách màu mè, việc dân chúng tràn vào tiểu thuyết”.

BUỔI RẠNG ĐÔNG THẾ KỈ 19 (À l'aube du siècle)

CHÍNH TRỊ VÀ TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC

1. Kiểm duyệt của Nhà nước


Điều XI Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền nói rõ: Quyền tự do công bố tư tưởng và ý kiến là một trong những quyền quý nhất của con người: vì vậy mọi công dân đều có thể phát biểu, viết, in ấn một cách tự do, với điều kiện phải chịu trách nhiệm về việc lạm dụng quyền tự do ấy, trong những trường hợp do luật pháp qui định.
Cách mạng Pháp tôn trọng quyền tự do ấy cho đến tháng Tám năm 1792. Sau đó tình hình xấu đi dẫn đến việc đặt ra luật tội phạm báo chí vào tháng 3-1793, một chiếc mặt nạ mới của nền kiểm duyệt vĩnh viễn.

GÓT CHÂN ASIN CỦA PUTIN

Điểm cuốn sách “Sự thăng trầm của số phận: cuộc đấu giành dầu và quyền lực ở Nga”[i] của Thane Gustafson – giáo sư khoa học chính trị, ĐH Georgetown, Washington.

Tony Wood, London Review of Books
Hiếu Tân dịch (“LE TALON D’ACHILLE DE POUTINE” – Books, Mai 2014.)


Từ khi phát hiện ra những mỏ dầu Sibia, 1960s, nước Nga gắn bó với vàng đen. Chính sự sụt giá dầu vào năm 1986 đã kết liễu cơn hấp hối của LX. Chính sự bùng phát của nó, từ 1999, đã tài trợ cho sự trở lại quyền lực của Putin và thiết lập chủ nghĩa tư bản lai tạp và biến chất, biến nước Nga thành gần như một nhà nước dầu lửa. Ngày nay, hệ thống này đã suy yếu. Sự phụ thuộc xuất khẩu dầu khí rất nặng nề, các nguồn đang có xu hướng cạn kiệt và các công nghệ thì lỗi thời.

Lịch sử nước Nga thế kỉ XX không thiếu những bước ngoặt, từ CMT10 năm 1917, qua cuộc đánh bại Đức ở Stalingrad 1943, cho đến sự biến mất đột ngột LX cuối 1991. Nhưng mọi người đều biết, làm nên số phận nước Nga không phải chỉ có những thời điểm then chốt này. Những bước chuyển khác, khó thấy hơn, đã uốn cong quĩ đạo của đất nước này. Bắt đầu từ năm 1959. Hồi đó các nhà địa chất từ lâu đã ngờ vỉa quặng ngầm bên dưới đầm lầy L’Ob có dầu, một cuộc thăm dò khảo sát khi đó đã xác nhận điều này, khi phát hiện ra một vỉa dầu ở gần làng Chaim. Từ 1960, giếng R-6 được đào, sau 18 ngày khoan đến độ sâu 1.500 m nó bắt đầu phun dầu với tốc độ 400 đến 500 tấn / ngày đêm, và đây là ngành công nghiệp quan trọng đầu tiên được khai thác ở Sibir. Thành công này kích khởi cơn cuồng nhiệt thăm dò và trong thời gian bốn năm tiếp theo sau, hơn hai mươi vỉa dầu trong vùng này được phát hiện. Nhưng mãi đến tháng Ba năm 1965 khám phá quan trọng nhất trong lịch sử dầu khí nước Nga mới được thực hiện, với mỏ dầu khổng lồ Samotlor: đứng thứ hai thế giới ở đỉnh điểm của nó trong những năm 1980, đến nay vẫn nằm trong số năm nước hàng đầu, sản xuất hơn 35 triệu tấn dầu thô một năm.

Thứ Sáu, 16 tháng 1, 2015

Alfred de Musset - Lời thú tội của một đứa con thế kỉ


HIẾU TÂN dịch 
[Collection Henri Mitterand: LITTÉRATURE XIXe Siecle-TEXT ET DOCUMENT]

Chắc chắn không có ai miêu tả hay như Musset, trong hai chương đầu của cuốn tiểu thuyết tự thuật năm 1836 Lời thú tội của một đứa con thế kỉ, trạng thái tinh thần của thế hệ trẻ lãng mạn trong phần ba đầu thế kỉ. Với óc tỉnh táo, nhà văn đã nhận ra trong cái khủng khiếp của cách mạng và trong cảnh tan tác của đế chế hai chấn thương lớn nhất đánh dấu thế hệ trong đó có ông: “Tất cả mọi bệnh tật của xã hội đến từ hai nguyên nhân: nhân dân đã qua năm 1789 và 1814 mang trong tim hai vết thương. Tất cả những gì đã qua thì không còn nữa, tất cả những gì sẽ đến thì vẫn còn chưa đến. Đừng tim bí mật của những điều ác của chúng ta ở đâu khác”

Thứ Năm, 15 tháng 1, 2015

Alice Munro: Sự giàu có của một cuộc đời kép

Aida Edemariam
The Guardian, Saturday 4 October 2003

Hiếu Tân dịch – 2013

Sinh ra và lớn lên trong một khu nghèo nàn Canada, Alice Munro lấy việc đọc - và sau này là viết – làm lối thoát khỏi cảnh sống khó khăn của gia đình. Được mô tả như một người đàn bà “nội trợ e dè” khi bà nhận được giải thưởng đầu tiên, từ đó đến nay bà được so sánh với Chekhov, và bây giờ (2003), ở tuổi 72, được coi là người viết truyện ngắn hay nhất trong những người còn sống.

Nhà văn Canada Alice Munro
Bà viết về việc giết mổ gà tây và nuôi cáo, về những cây gỗ bị đốn trong rừng hoang Ontario, về những trường học nông thôn khắc nghiệt và những căn bệnh dai dẳng, về bạo lực gia đình và nỗi nhục nhã thầm kín, và trên hết, bà viết về cuộc đời những cô gái và những người phụ nữ. Trong khi những chuyện này có vẻ làm cho bà kém nổi tiếng hơn là bà đáng được thế, thì bà đã bị ném đá như ta có thể đoán trước, rằng bà chỉ quan tâm những chuyện nhà cửa nhỏ mọn, hẹp hòi, địa phương và cũ kĩ, rằng bà chỉ viết truyện ngắn, những câu chuyện của bà chỉ nói về thắng lợi đối với những định kiến vụ vặt như thế. Trong một thời gian dài Alice Munro được so sánh với Chekhov; John Updike còn kể thêm Tolstoy, và A S Byatt thì nói đến Guy de Maupassant và Flaubert. Munro thường được gọi là nhà viết truyện ngắn bằng tiếng Anh hay nhất trong số những người còn sống; các từ “truyện ngắn” thường xuyên được nhắc đến.

Thứ Hai, 12 tháng 1, 2015

Vài "tâm tư" khi dịch sách "Learning Theories in Childhood"

Thưa các anh chị và các bạn,

Tôi rất vui mừng vì một sự tình cờ tôi được gặp gỡ và làm việc với Trường Hoa Sen, và cộng tác với ban tu thư, qua dịch giả Mai Sơn, và điều thú vị là cuốn sách tôi dịch đầu tiên cho BTT chính là cuốn Learning Theories in Childhood (LTiC), [Các lý thuyết về học tập ở tuổi thơ].


Những vấn đề về dạy và học là cái mà tôi vốn quan tâm, trong những lúc tôi từng học và từng dạy. Luôn khao khát những ý tưởng mới mẻ về dạy và học: Độc lập suy nghĩ. Động cơ học tập. Lấy người học làm trung tâm. Giải quyết tình huống có vấn đề... Metacognition (LTiC, 118) trong khi nghiền ngẫm về học, tôi thấy một ý tưởng mà cho đến bây giờ, qua các sách mình đọc tôi vẫn thấy nó là của riêng mình: Trí thông minh/khả năng học tập của người học (learner) không phải chỉ là thứ trời cho, nó có thể và cần được phát triển ngay trong quá trình học.

Sau đây là những điều tâm đắc khi dịch cuốn sách.

NHÀN NGẪM

Cái ý tưởng “đối thoại với Phật” bị nhiều người chê là cao ngạo, bất kính. Phải vậy không? Làm gì có một ông Phật hiển hiện trước mắt mình, để mình thưa chuyện. Vậy nên đối thoại với Phật chỉ là mình thưa chuyện với chính mình. Nói chuyện với tâm mình, Phật tại tâm mà.

SINH LÃO BỆNH TỬ

Xuât phát điểm của tư tưởng Phật là một chữ khổ, nó quán xuyến toàn bộ hành trình của sinh mệnh. Rõ hơn, đây là sinh mệnh người, vì chúng ta là người, nên quan tâm đến sinh mệnh người. Không biết các loại chúng sinh khác (noãn sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh..) có cảm nhận về con đường sinh (lão bệnh) tử này không? Thêm nữa, nó là sinh mệnh của cá thể người, của cá nhân. Bởi vì, khi sinh mệnh được ngắt ra làm bốn nhịp như thế, Sinh/ Lão/Bệnh/Tử, thì không có một tập hợp sinh thể nào mà trong nó tất cả các cá thể luôn cùng một nhịp. Ngay trong một cơ thể, trong từng giây phút, nhóm tế bào này chết đi nhóm tế bào khác sinh ra, liên tục không dừng. Vậy trong cơ thể lúc nào cũng có Sinh và có Tử, tổng hợp lại đó chính là hoạt động Sống. Cũng giống như thế với một cộng đồng người. Khi xảy ra một đại họa, như thiên tai, dịch bệnh hoặc chiến tranh, rất nhiều người chết trong khoảng thời gian ngắn, thì đó là tổng số những cái chết cá nhân, nhiều người khác không chết, cộng đồng không chết. Và nhiều người được liên tục sinh ra. Quán ta với người là một, không hai, không thể tác dụng trong trường hợp xét, vì ta đang bệnh không thể cho rằng người khác cũng đang bệnh.

MẤY MẨU CHUYỆN CƯỜI

HIẾU TÂN
Theo cuốn Plato và con thú mỏ vịt bước vào quán bar


  Hai tác giả cuốn Plato và con thú mỏ vịt bước vào quán bar[1], Thomas  Cathcast và Daniel Klein, có một sáng kiến đem những chuyện vui cười đến cho người học triết, khiến triết học không còn quá khô khan và “nghiêm trọng”; và cho chúng ta thấy những chuyện cười, tất nhiên là rất cần trí tuệ, đôi khi cũng minh triết lắm chứ.

  Sau đây là một số thí dụ vui:

Chuyện cười số 1:
Morty về nhà thấy vợ gã cùng với Lou, người bạn chí thiết của gã, đang trần như nhộng trên giường. Morty chưa kịp mở miệng thì Lou nhảy ra khỏi giường và bảo: “Trước khi cậu nói bất cứ điều gì, nghe đây, ông bạn vàng ạ, cậu tin vào cái gì, tin tớ hay tin vào mắt của cậu?”

PIERRE-AUGUSTE RENOIR (1841 - 1919)

Renoir sinh ở Limognes, là con thứ sáu trong một gia đình nghèo có bảy anh em. Mười ba tuổi Renoir đã bắt đầu kiếm sống bằng nghề vẽ lên đồ sứ. Việc học nghề quá sớm như thế đã để dấu vết lên nghệ thuật của ông, nó luôn là trang trí bất kể tính chất hiện thực ở giai đoạn sau. Bố của Renoir là thợ may gia công nên ông phải bán tranh nhiều hơn những họa sĩ khác. Đó là nguyên nhân giải thích việc ông đáp ứng nhu cầu bằng những bức chân dung vẽ theo thị hiếu, nhưng rất đẹp, trong khi những bức khác của ông lại tỏ ra tự do thoải mái hơn. Người ta chê trách Renoir rất nhiều về tất cả những điều đó.

Hội họa hiện đại Pháp

Phần I
TINH THẦN HIỆN ĐẠI1855-1895

Thời Hiện đại tìm thấy mình trong một hệ thống mênh mông những thể chế, những sự kiện bất di bất dịch, những giáo lí đã mất tín nhiệm, những phong tục, những qui tắc đã có từ thời nào để lại; chính trong hệ thống đó cuộc sống hiện đại tiến lên phía trước, nhưng nó cảm thấy rằng hệ thống đó không phải là sáng tạo của bản thân nó, rằng hệ thống đó không phù hợp với những đòi hỏi thực tế của nó, rằng đối với nó hệ thống đó là cổ lỗ, không hợp lí. Sự thức tỉnh của cảm giác đó là sự thức tỉnh của Tinh thần Hiện đại. Bây giờ Tinh thần Hiện đại đang thức tỉnh khắp nơi.

Khai sáng là gì?

Immanuel Kant
Hiếu Tân dịch
This is a so important text that I cannot help translating it myself
[though there have been dozens of Viet.versions circulating]


Khai sáng là sự vươn lên của con người khỏi tình trạng vị thành niên mà hắn tự áp đặt cho mình. Vị thành niên là không có khả năng sử dụng hiểu biết của chính mình mà không cần sự dẫn dắt của người khác. Tình trạng vị thành nên này là tự áp đặt nếu nguyên nhân của nó không nằm trong sự thiếu hiểu biết mà nằm trong sự thiếu cả quyết và thiếu can đảm để sử dụng trí tuệ của chính mình mà không có sự dẫn dắt của người khác. Do đó, “Hãy dám biết!” (Sapere aude.) “Hãy can đảm sử dụng hiểu biết của chính mình” là khẩu hiệu của khai sáng.

Lười nhác và hèn nhát là những lí do khiến một phần đông đến thế của loài người vẫn cam tâm làm vị thành niên trong suốt cuộc đời của họ, rất lâu sau khi tự nhiên đã giải phóng họ khỏi sự dẫn dắt của bên ngoài. Đó cũng là lí do tại sao nhiều người khác tự khoác lấy vai trò giám hộ đến thế. Bởi làm vị thành niên thì thật là dễ chịu. Nếu tôi có một cuốn sách nó suy nghĩ hộ tôi, một mục sư hành động thay cho lương tâm tôi, một thày thuốc kê đơn ăn kiêng cho tôi, và vân vân, thì tôi chẳng cần tự mình ra tay làm gì.

Thứ Bảy, 3 tháng 1, 2015

Tôi chưa bao giờ gặp Khổng Tử

HIẾU TÂN

Bạn sẽ cười khi nghe tôi nói câu này; thì đã có ai gặp đâu, người sống cách chúng ta 25 thế kỷ. Nhưng có một sự thật là Khổng Tử vẫn sống, tuy chỉ mờ mờ bàng bạc trong dân gian. Với tôi điều này là quan trọng nhất: tôi chưa bao giờ muốn gặp ngài.

NHỮNG CHUYỆN CHƯA KỂ VỀ ĐÔNG KYSÔT

HIẾU TÂN

Phần 1: Cuộc trò chuyện chưa từng có
giữa chàng hiệp sĩ Mặt buồn với một kẻ xa lạ


  Đông Kysôt (Don Quichotte / hay Đôn Kihôtê - Don Quijote) ngồi bên bờ suối vắng. Dưới ánh sao mờ. Trong rừng cây xào xạc. Thân thể kiệt quệ và rớm máu.Giáp tả tơi, giáo gãy mẻ, mũ trụ bẹp rúm. Cạnh đó, con Rôtxinăngtê run rẩy và ủ rũ.

-          Kính chào hiđangô, ngài suy nghĩ gì vậy, trong cảnh trời đêm kỳ ảo như đêm nay, một mình giữa rừng khuya tịch mịch này? Phải chăng ngài đang ôn lại những chiến công hiển hách của đời hiệp sĩ giang hồ, hay đang để tâm tưởng bay bổng theo hình bóng ý trung nhân Đuynxinê đuy Tôbôdô kiêu bạc, mà sắc đẹp có một không hai dưới gầm trời từng khiến mọi con tim biết yêu phải thổn thức  ước ao ?

-      Không một ai có quyền diễu cợt ta, diễu cợt Đông Kysôt này, kể cả anh, kẻ hậu sinh đáng mến ạ. Trang phục và phong thái của anh cho ta biết anh đến từ phương trời xa lạ, giữa ta và anh có khoảng cách nhiều thế kỉ. Cho dù ta luôn cho rằng phán xét của các thế hệ đến sau là đáng trọng,vì trí tuệ của họ đã được thời gian bồi đắp cho dày thêm bằng những khôn ngoan của nhân loại, cho dù tất cả điều đó, anh cũng không có quyền diễu cợt ta.