Thứ Tư, 21 tháng 1, 2015

Lão Shadrach Cohen Mỹ hóa


Bruno Lessing (1870- 1940)
HIẾU TÂN dịch

Một con giun mà quằn lên thì chẳng theo qui tắc nào cả. Ấy thế nhưng, hầu như mọi con giun quằn lên đều rất bất ngờ. Lão Shadrach Cohen cũng thế.
Lão có hai con. Một đứa là Abel, và thằng kia, Gottlieb. Chúng rời nước Nga năm năm trước cha, mở một cửa hiệu trên phố Hester bằng tiền lão cho chúng. Vì những lí do mà chỉ những người buôn bán hiểu được, chúng quản lí cửa hiệu mang tên người cha, và, khi công việc làm ăn đã nên khá giả, thấy có cơ hội đầu tư thêm nhiều vốn sẽ có lợi hơn, chúng viết thư mời người cha thân yêu sang đất nước này.
“Ở đây chúng con có ngôi nhà xinh đẹp cho cha. Cha con ta sẽ sống hạnh phúc bên nhau.”

Shadrach đến. Ông lão mang theo Marta, người giúp việc đã chăm sóc vợ ông cho đến khi bà qua đời, và theo khẩn cầu của vợ, ông nhận bà ta vào gia đình. Khi tầu cập bến, lão được hai cậu trai bảnh bao đón, mỗi cậu đeo một chiếc cà vạt rực rỡ có gắn kim cương. Phải mất một lúc lão mới nhận ra đó chính là hai đứa con của lão. Abel và Gottlieb lao ngay đến quàng tay ôm cổ cha, chào mừng ông đến đất mới. Sau lưng ông hai đứa thất vọng đưa mắt cho nhau. Trong năm năm qua chúng đã quên rằng cha chúng mặc đồ gabardin lụng thụng nhăn nheo, thứ quần áo như bao tải của ghetto[i] Nga, và có một bộ râu xám dài và rối tung, một món tóc quăn rủ xuống quá tai – nói tóm lại, lão là một hình ảnh hoàn chỉnh của người nhập cư mà bề ngoài lúc nào trông cũng kì quái. Abel và Gottlrieb tự hào vì chuyện chúng đã Mỹ hóa. Và chúng nhăn mặt khi trông thấy Marta.
“Nào đi, cha. Chúng con đưa cha đến tiệm hớt tóc. Họ sẽ xén tỉa bộ râu của cha và làm cho cha giống một người Mỹ hơn. Rồi chúng con đưa cha về nhà.”
Shadrach ngạc nhiên nhìn hết đứa này sang đứa kia. “Râu của tao ấy à?” Lão hỏi “Râu tao thì có làm sao?”
“Trong thành phố này, không ai để bộ râu như cha,” chúng giải thích “trừ những người Do Thái từ Nga mới đến.”
Đôi môi Shadrach mím chặt lại một lát. Rồi lão nói “Vậy thì tao cứ để bộ râu nguyên như thế. Tao là một người Do Thái từ Nga mới đến.”
Hai đứa con trai nắm chặt nắm tay sau lưng chúng và mỉm cười thật dễ thương với ông. Dù sao thì ông ấy cũng nắm hầu bao. Tốt nhất là làm vừa lòng ông ấy.
“Chúng ta làm gì với Marta bây giờ. Chúng con đã có một người giúp việc, chúng con không cần hai”
“Marta sẽ ở với chúng ta. Cho người kia nghỉ đi.” Ông già nói. “Nào, đưa cha về nhà. Tao thấy đói rồi.”
Chúng đưa ông lão về nhà, ở đó chúng đã sửa soạn một bữa tiệc để đón lão. Khi lão bảo Marta ngồi xuống cạnh lão bên bàn ăn, Abel và Gottlieb lập tức nhìn lảng ra cửa sổ. Chúng cảm thấy chúng không thể giấu nổi cảm xúc. Bữa tiệc hóa ra thất bại. Shadrach vắt óc nghĩ tìm lời giải thích sự thay đổi đến với hai đứa con. Trước đây chúng chưa bao giờ bộc lộ tình cảm lộ liễu với lão như thế, mà lão cũng không chờ chúng chào đón nồng hậu như thế. Nhưng lão nhận thấy ngay rằng có một bức tường ngăn cách lão với hai đứa con, một thay đổi nào đó đã xảy ra, lão đâm lo âu và bối rối. Khi bữa ăn kết thúc, Shadrach đội chiếc mũ cầu nguyện của lão lên, và bắt đầu đọc kinh tạ ơn. Abel và Gottlieb nhìn nhau kinh hoảng. Chẳng lẽ bữa nào cũng phải chịu như thế này? Tốt hơn – tốt hơn nhiều – là cứ liều để ông cụ bực bội và nói thật ra ngay bây giờ. Khi đến chỗ phải phụ họa, Shadrach nhìn hai đứa con cái nhìn chất vấn. Abel đành phải giải thích:
“Chú..chúng con từ lâu đã..đã.. ơ..thôi không cầu nguyện, đã thành quen rồi, thưa cha. Như thế không được Mỹ lắm.”
Shadrach nhìn hết đứa này sang đứa khác. Rồi, cúi đầu xuống, lão tiếp tục cầu nguyện.
“Các con ta,” lão nói khi bàn ăn đã dọn đi. “Không cầu nguyện sau bữa ăn là sai. Nó là một phần tôn giáo của các con. Tao chẳng biết tí gì về cái nước Mỹ này và những phong tục của nó. Nhưng tôn giáo của chúng ta là thờ phụng đấng Jehovah, Người đã chọn chúng ta làm con cái của người trên mặt đất này, và cũng chính đấng Jehovah đang ngự trị tối cao trên nước Mỹ cũng như Người đã ngự trị cái đất nước mà từ đó các con đến đây.”
Gottlieb vội vã chuyển đề tài và giải thích với lão chúng đang hết sức cần tiền để mở rộng kinh doanh. Shadrach kiên nhẫn nghe một lúc rồi nói.
“Tao mệt sau chuyến đi dài. Tao không hiểu cái chuyện làm ăn buôn bán mà chúng mày nói. Nhưng các con muốn bao nhiêu tiền cũng được. Dù sao, tao cũng chẳng còn ai ngoài hai đứa mày.” Lão thân ái nhìn chúng. Rồi liếc sang người đàn bà giúp việc, lão nói thêm, vội vã:
“Và Marta.”
“May quá,” Gottlieb nói, khi cha đã đi nghỉ. “Ông ấy không keo kiệt.”
“Ồ, ông già ngon đấy,” Abel trả lời. “Sau khi đã quen với mọi chuyện ở đây, ông ấy sẽ thành một người Mỹ chính hiệu như chúng ta.”
Thế nhưng, chúng bắt đầu chán nản khi nhận ra rằng, sau mấy tháng trời, cha chúng vẫn bám chặt những thói quen và lối sống cũ với độ gan lì khiến chúng thất vọng. Chúng càng cố thuyết phục lão từ bỏ lối sống ấy bao nhiêu thì hình như lão càng tha thiết bám chặt lấy nó bấy nhiêu. Dường như lão chẳng đoái hoài gì đến công việc làm ăn của chúng, nhưng lão gần như vui vẻ đáp lại mỗi khi chúng hỏi xin tiền. Lão bắt đầu cảm thấy, dù sao, đó là mối liên hệ duy nhất ràng buộc lão với các con. Và mỗi khi moi được tiền ở lão, lũ con lại lắc đầu thở dài.
“Cha ơi, chỉ cần cha đừng khăng khăng giữ cái kiểu lỗi thời như thế” Abel nói.
“Chúng con xin sửa cha một chút” Gottlieb phụ họa, “là cha tiến bộ ngay thôi mà. Như những người già khác ở lứa tuổi cha trên đất nước này.”
“và cha xén tỉa bộ râu của cha cho khác đi”
“và học nói tiếng Anh.”
Shadrach không bao giờ nổi nóng, không bao giờ trách mắng chúng. Lão chỉ nhìn hết đứa này sang đứa kia và mím chặt đôi môi. Và khi chúng đi khỏi, lão nhìn Marta và nói.
“Bà nghĩ thế nào, Marta, cho tôi biết bà nghĩ sao?”
“Tôi mà xen vào giữa cha con nhà ông thì không phải lẽ”, Marta nói. Và Shadrach không bao giờ thuyết phục được bà ta nói với lão bà ta nghĩ gì. Nhưng lão có thể nhận thấy ánh mắt bà ta và thấy sự bực dọc nặng nề trong cái cách bà ta rửa hàng giờ đống chai lọ và xoong chảo sau những cuộc nói chuyện đó, và cảm thấy dễ chịu vì sự lo lắng bồn chồn của bà ta.
Như chúng tôi đã nói lúc đầu, một con giun mà quằn lên thì chẳng theo qui tắc nào cả. Thế nhưng có những con giun quằn lên răng rắc. Đó là điều xảy ra với Shadrach Cohen.
Gottlieb thông báo với bố rằng cậu ta tính lấy vợ.
“Cô ấy rất đẹp” cậu ta nói. “Mọi việc bà mối đã lo liệu cả rồi.”
Nét mặt người cha sáng lên vẻ vui mừng.
“Gottlieb” ông giơ tay ra nói “Chúa phù hộ cho con. Đây là việc tốt lành nhất mà con làm được. Marta, đưa mũ và áo khoác cho tôi. Gottlieb, ta đi nào. Đưa cha đến gặp con bé. Ta không thể chờ được nữa. Tao muốn xem mặt cô con dâu tương lai của bố ngay bây giờ. Mẹ con còn sống đến hôm nay chắc hẳn phải vui lắm.”
Gottlieb đỏ mặt lên và chùn lại.
“Con nghĩ chưa nên đi bây giờ bố ạ. Mình hãy đợi mấy ngày nữa đến khi bà mối dàn xếp xong mọi việc đã. Cô ấy là một cô gái Mỹ. Cô ấy, ơ.. không hiểu cung cách của cha – cha biết không? Và sẽ hỏng mọi việc.”
Xoảng. Marta đánh rơi chiếc chảo gang bà ta đang rửa. Shadrach đỏ bừng mặt vì cơn giận cố nén.
“Thế đấy” ông nói. “Đã đến nước này. Mày xấu hổ vì bố mày.” Rồi ông quay sang nói với người đàn bà giúp việc.
“Marta. Ngày mai chúng ta sẽ là người Mỹ. Bà và tôi.”
Có một điệu ngân nga trong câu nói của lão khiến đứa con chột dạ.
“Cha đừng giận” nhưng bằng một cử chỉ quyết liệt người cha đã chặn ngang.
“Không nói thêm một lời nào nữa. Câm mồm. Câm mồm ngay.”
Gottlieb chết lặng đi. Gã há hốc mồm nhìn cha trừng trừng. Từ bé đến giờ gã chưa nghe giọng nói này bao giờ.
“Nhưng, thưa cha” gã bắt đầu.
“Không một lời nào nữa. Mày có nghe tao nói không? Tao sẽ không nghe thêm một lời nào nữa. Năm phút nữa mà mày không lên giường thì ra khỏi cái nhà này. Hãy nhớ, đây là nhà tao.”
Rồi lão quay sang Abel. Abel đang hút một điếu xì gà.
“Vứt điếu thuốc đi ngay.” Lão ra lệnh bằng một giọng lạnh lùng.
Abel thở hổn hển và nhìn cha hoảng sợ.
“Marta, giật điếu thuốc khỏi mồm nó và ném vào bếp lửa. Nếu nó chống lại nó ra khỏi nhà.”
Với một nụ cười hết sức thích thú, Marta giật điếu xì gà khỏi đôi môi không cưỡng lại của Abel và bất ngờ dẫm mạnh lên những ngón chân cậu ta. Shadrach nhìn các con lâu và nghiêm khắc.
“Ngày mai, các con ta,” lão nói chậm rãi “các con sẽ bắt đầu một cuộc sống mới.”
Sáng hôm sau, Abel và Gottlieb linh tính chuyện chẳng lành, vội vã hết sức rời khỏi nhà. Chúng muốn đến ngay cửa hiệu để bàn bạc. Tuy nhiên, vừa mới bước vào chúng đã thấy bóng cha lù lù hiện ngay trên ngưỡng cửa. Lão chưa đến đây bao giờ. Lão nhìn quanh một cách thỏa mãn những bằng chứng về sự thịnh vượng bày ra trước mắt. Khi lão trông thấy tên “Shadrach Cohen – chủ tiệm” trên cửa, lão chặc lưỡi. Hai đứa con còn chưa kịp hoàn hồn trước sự xuất hiện của lão, thì một nhân viên, nước da tái xám, ngậm một điếu thuốc, đến gần Shadrach và hỏi bằng giọng the thé:
“Chào ông, ông cần gì?” Shadrach nhìn hắn một cách tò mò. Tay này cũng là người Mỹ đây à? Người đàn ông cau mày khó chịu.
“Nào, nào. Tôi không thể đứng đây cả ngày. Ông có cần gì không?”
Shadrach mỉm cười và quay sang hai đứa con.
“Đuổi hắn đi ngay. Tao không muốn có loại người như thế này ở chỗ của tao.” Rồi quay về phía người đàn ông, lúc này mới chợt nhận ra tình thế, lão nói giọng nghiêm khắc:
“Anh bạn trẻ, bất cứ lúc nào anh nói với một người lớn tuổi hơn anh, hãy nói cho lễ phép. Hãy tôn kính cha mẹ của anh[ii]. Bây giờ biến đi càng nhanh càng tốt. Ta không thích anh.”
“Nhưng, thưa cha” Gottlieb xen vào “chúng con phải có người để làm công việc này.”
“Trời ơi” Shadrach nói “Vậy nữa sao? Vậy thì, bây giờ, con hãy làm việc đó. Còn người thanh niên ở đằng kia, nó làm gì?”
“Anh ấy là người bán hàng.”
“Cho hắn nghỉ đi. Abel sẽ thay thế hắn”
“Nhưng, thưa cha, ai sẽ quản lí cửa hàng? Ai sẽ coi sóc cho mọi việc trôi chảy?”
“Tao sẽ làm,” người cha nói. “Thôi bây giờ không nói thêm nữa. Đi làm việc.”
Tiu nghỉu, khổ sở và mất hết nhuệ khí, Abel và Gottlieb bắt đầu công việc bé mọn của mình trong khi người cha đảm nhận nhiệm vụ làm quen với những chi tiết của công việc kinh doanh. Và thậm chí chưa xong công việc trong ngày, lão đến gặp các con mặt nhăn nhó khó chịu.
“Chà!” Lão la lên. “Đúng như tao dự đoán. Cả hai đứa mày làm cho công việc lộn xộn hết mức, may mà chưa đến nỗi hỏng hết. Cái mà các con thiếu là đầu óc. Nếu trở thành người Mỹ có nghĩa là trở nên ngu đần thế này thì bố phải chúc mừng là các con đã thật sự trở thành rồi đấy. Ngày mai cha sẽ thuê một người quản lí để điều hành cửa hàng này. Anh ta sẽ cắt đặt giờ giấc làm việc của các con. Anh ta sẽ trả các con mức lương xứng đáng với công việc. Không hơn một xu. Các con thường mở cửa đến mấy giờ?”
“Đến sáu giờ tối,” Abel nói.
“Hừ! Thôi được, bắt đầu từ hôm nay, cả hai đứa sẽ ở đây đến tám giờ tối. Rồi một đứa có thể về nghỉ. Còn đứa kia sẽ ở lại đến mười giờ. Hai đứa có thể thay phiên nhau. Tao sẽ cho Marta mang bữa tối cho chúng mày.”
Trước sự kinh ngạc của Abel và Gottlieb việc kinh doanh của Shadrach Cohen bắt đầu tiến triển. Dần dần hai đứa vỡ ra rằng trong việc làm ăn buôn bán thì chúng chỉ là những đứa trẻ con so với cha chúng. Trí tuệ của lão đúng là của người làm-ra-tiền, có cái gì kì diệu trong việc lão mau lẹ nắm được những phương diện rắc rối nhất của nghề buôn, và khi nào kinh nghiệm không giúp được thì bản năng hình như dẫn dắt cho lão đi đúng. Dần dần, khi công việc kinh doanh của Shadrach tăng tiến, ngay cả những đứa con cũng thấy cái viễn cảnh phát đạt vượt xa cả những ước mơ hoang dại nhất của chúng, chúng bắt đầu nhìn cha với con mắt ngày càng kính nể. Những gì chúng không muốn gán cho tính liêm chính của tính cách ông, tính cao quí của tâm hồn ông, thì chúng gán cho cái khôn ngoan của trí óc ông. Những đứa con của Shadrach tự hào về cha mình. Cả ở ông lão cũng có một sự thay đổi đang chầm chậm diễn ra. Một cuộc sống mới mở ra trước mắt ông, đầu óc ông trở nên phóng khoáng hơn, bao dung hơn, và trên hết, giáo lí của ông cũng trở nên mềm dẻo hơn. Tiếp xúc với thế giới bên ngoài, ông nhanh chóng nhận ra sự khác nhau to lớn giữa môi trường hiện tại bao quanh ông và cuộc sống cũ của ông ở nước Nga.Vẻ quyến rũ của đời sống Mỹ, của tự do, dân chủ lôi cuốn ông mạnh mẽ. Khi công việc kinh doanh của ông mở rộng, ông tiếp xúc với ngày càng nhiều người trong giới kinh doanh Mỹ, ông học hỏi ở họ nhiều điều, nhất là khả năng thích ứng. Và khi các con ông bắt đầu hiểu rằng tất cả những con người kinh doanh ấy, mà trước đây chúng thường nhìn với những tình cảm gần như sùng kính, hình như bày tỏ với người cha sự kính trọng mà họ chưa bao giờ tỏ ra với những người con, thì sự ngưỡng mộ của chúng đối với cha càng tăng lên.
Thế nhưng Shadrach Cohen cũng vẫn là Shadrach Cohen.
Từ cái thời khắc bùng nổ khi lão nổi loạn chống lại những đứa con, lão đòi hỏi ở chúng sự vâng lời tuyệt đối và lòng kính trọng sâu sắc. Từ lúc đó lão tỏ ra cứng rắn và kiên quyết. Hơn nữa, lão khăng khăng đòi chúng tuân thủ một cách khắt khe mọi điều giáo lí của tôn giáo. Điều này, lúc đầu là viên thuốc dắng cho tất cả. Nhưng chẳng bao lâu mọi người trở nên quen. Khi cuộc sống nhẹ nhàng và vô lo, thì tôn giáo dễ bay đi, nhưng khi bầu trời tối sầm lại, và cuộc sống trở nên nghiệt ngã, và chúng ta cảm thấy gánh nặng cuộc đời đè trĩu vai, thì ta sẵn sàng đón nhận sự an ủi mà tôn giáo mang lại, và chúng ta bám víu lấy nó. Và Shadrach Cohen đã dạy các con rằng cuộc đời là nghiệt ngã. Họ đang kiếm miếng ăn bằng mồ hôi của mình. Không có tù nhân nào, với xiềng xích, bị cai tù giám sát chặt hơn Abel và Gottlieb.
“Từ trước đến nay các con đã sống nhờ vào sự rộng lượng của ta.” Người cha nói với các con. “Bây giờ ta sẽ dạy các con tự kiếm miếng ăn.”
Và ông đã dạy chúng. Và với bài học ấy chúng học được nhiều điều, học được giá trị của kỉ luật, học được vẻ đẹp của lòng tôn kính đối với cha, học được niềm vui giản dị của cuộc sống đứng đắn nghiêm chỉnh.
Một hôm Gottlieb nói với cha:
“Tối nay con có thể đưa Mariam về ăn tối không? Con băn khoăn không biết có nên để cha gặp cô ấy không.”
Shadrach quay mặt đi để Gottlieb không nhìn thấy niềm vui lóe lên trong mắt ông:
“Ừ, con trai ạ.” Lão trả lời. “Ta cũng băn khoăn không biết con bé có xứng đáng với con không.”
Mariam đến. Ngượng ngùng và bối rối, Gottlieb giới thiệu cô với cha. Cô gái ngạc nhiên nhìn dáng người đáng kính đang đứng trước cô – hình ảnh một vị trưởng lão trong Ngũ thư[iii], với bộ râu dài rối tung và những lọn tóc quăn trùm phủ tai, và bộ quần áo bằng gabardine của những ghetto Nga. Và cô thấy một đôi mắt sắc màu xám chăm chú nhìn cô – đôi mắt của trí khôn ngoan, nhưng dịu dàng và âu yếm như mắt phụ nữ – đôi mắt của người đàn ông mạnh mẽ với trái tim nồng hậu. Bất giác nàng chạy đến bên ông và nắm lấy tay ông. Và với nụ cười trên môi nàng hỏi:
“Bác có chúc phúc cho con không?”
Bữa ăn tối xong, Shadrach đội chiếc mũ cầu nguyện, cúi đầu ngâm nga bài kinh tạ ơn.
“Chúng con tạ ơn Chúa, Người đã đem của cải của người cho chúng con ăn.”
Và bằng giọng nhiệt thành lời họa theo bay ra từ đôi môi Gottlieb:
“Tạ ơn Chúa.”


Hiếu Tân dịch- Jan 2015


[i] Ghetto: khu dân cư Do Thái
[ii] “Honour your father and your mother” câu nói trong Điều răn của Chúa và trong Tân Ước.
[iii] Năm quyển đầu tiên trong Cựu ước.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét