Bắc Phi và Trung Đông
1. Bạo loạn ở Bắc Phi
và Trung Đông có thể lan tới Syria
CNN
2. Nền dân chủ có thể
hoạt động như thế nào ở Trung Đông
TIME
3. Một giai đoạn mới
của sự bất ổn nguy hiểm
SPIEGEL
4. Các nhà độc tài
khôn ngoan không đàn áp Internet.
Wall Street Journal
5. Cuộc trở lại của
những người Islamist: Một dạng tự do đáng ngờ cho Bắc Phi
SPIEGEL
6. Không giờ ở Trung Đông: Quá khứ của Thế giới A Rập nói gì
với chúng ta về Tương lai của nó?
SPIEGEL
7. Mùa Xuân A Rập đã ngừng lại? Các nền độc tài đã giành được
đất ở Trung Đông
SPIEGEL
8. Nhìn vào những
nguyen nhân gốc rễ của cách mạng A Rập:
Phỏng vấn nhà xã hội học Pháp Emmanuel Todd.
SPIEGEL
9. Những bước đi ngập nhừng đến Dân chủ: cuộc cách mạng A Rập bị kẹt
giữa hồ hởi và thất vọng
SPIEGEL
10. Cuộc cách mạng thầm lặng ở Rabat: Tuổi trẻ Morocco muốn thay đổi
theo cách của họ.
SPIEGEL
10. Cuộc cách mạng thầm lặng ở Rabat: Tuổi trẻ Morocco muốn thay đổi
theo cách của họ.
SPIEGEL
11. Sau cuộc nổi dậy: những người chống đối có thể tìm thấy một con
đường giữa chế độ độc tài và vô chính phủ hay không? (Yemen)
New
Yorker
1.
Bạo loạn ở Bắc Phi và Trung Đông có
thể lan tới Syria
Mike Pearson, viết cho CNN
31/01/2011
http://edition.cnn.com/2011/WORLD/africa/01/31/egypt.protests.where.else/index.html?eref=time_world
Một cuộc biểu tình chống Tổng thống Syria Bashar Assad trước
cửa toà Đại sứ Syria tại thủ đô Jordania Amman. Assad đã đàn áp
dã man cuộc nổi dậy ở Syria
CNN-
Điều khởi đầu như một cuộc nổi dậy của dân chúng đã lật nhào chính phủ Tunisia
trước khi lan rộng ra Algeria, Jordan, Yemen, Sudan và tất nhiên, Ai cập, nay
có lẽ đang hướng sang Syria.
Phong trào chống đối ở Syria đang kêu gọi những
cuộc biểu tình quần chúng vào Thứ Bẩy chống lại ách thống trị của tổng thống
Bashar Al-Assad.
Các
nhóm đang được tổ chức trên Facebook, với nhiều trang khích động những cuộc biểu
tình ở Damascus, Aleppo và nhiều thành phố khác.
Theo
Viện nghiên cứu Truyền thông Trung Đông, một tổ chức có cơ sở ở Washington, nơi
nghiên cứu và dịch những bản tin và những nội dung được post lên các phương tiện
truyền thông xã hội, thì những người tổ chức biểu tình đòi hỏi mức sống
cao hơn, những cải thiện về tình trạng nhân quyền và tiếng nói mạnh hơn cho giới
trẻ.
Vẫn chưa rõ có bao nhiêu người sẽ tham gia biểu
tình. Trên các trang Facebook đã có vài ngàn người lên tiếng ủng hộ phong trào
này, một số trong họ chắc là ở ngoài nước này, viện nghiên cứu đó nói.
Hôm
chủ nhật ở Sudan đã thấy có mùi vị chống đối. Một số lượng chưa xác định các
sinh viên đại học và những người khác đòi loại bỏ chính phủ trong các cuộc biểu
tình được Facebook tổ chức trong đó những người lãnh đạo nói họ được khích lệ bởi
các sự kiện ở Tunisia.
Các
sinh viên biểu tình ở trường đại học Khartum, hô khẩu hiệu “không tăng giá,
không tham nhũng” và “Tunisia, Ai cập Sudan là một,” “Nhân dân Sudan sẽ không
chịu im lặng nữa. Đây là lúc chúng ta đòi quyền của chúng ta và lấy lại những
gì là của chúng ta, trong một cuộc biểu tình hòa bình không dính với phá hoại.,”
theo một bản tiếng Anh trên giao diện Facebook của nhóm.
“Chúng
tôi sẽ biểu tình chống tăng giá, chống tham nhũng, thất nghiệp và những hành động
sai trái của chính phủ như bạo hành đối với phụ nữ, hành hạ họ theo những cách
phá vỡ mọi luật lệ tôn giáo và nhân đạo, và xâm phạm quyền của các dân tộc thiểu
số.”
Tờ
báo Sudan Tribune nhắc một lời tuyên bố từ cảnh sát, nói 79 người, trong đó có
40 sinh viên đã bị bắt sau các cuộc biểu tình.
Trong
khi đó, một trang Facebook đã ra mặt kêu gọi biểu tình hôm thứ Năm ở Yêmen, là
nơi trước đó đã có một số cuộc biểu tình.
Các
cuộc biểu tình ở Tunisia đã châm ngòi cho những cuộc bạo động bùng nổ trong khu
vực sau khi Mohamed Bouazizi, một sinh viên 26 tuổi đã tốt nghiệp, tự thiêu để
phản đối cảnh sát tịch thu xe rau quả để kiếm sống của anh. Anh đã chết sau đó.
Các
cuộc biểu tình đó đã dẫn đến sự sụp đổ của chính phủ Tunisia và khích lệ những
cuộc biểu tình tương tự trong các nước khác, trong đó có Algeria, Jordan, Sudan
và Yemen.
Các
cuộc biểu tình lúc này đã lên đến đỉnh cao ở Ai cập, trong đó nhiều nghìn người
Ai cập đã bất chấp lệnh giới nghiêm của chính phủ và đụng độ với cảnh sát, đòi
tổng thống Hosni Mubarak từ chức.
Một
trang Facebook có nhiều người đọc đã giúp tổ chức các cuộc biểu tình ở Cairo,
được dành để tôn vinh Bouazizi.
Nhà
báo Isma'il Kamal Kushkush
đã đóng góp cho bài này.
HT 010211
__________________________________
2.
Nền dân chủ có thể hoạt động như thế nào
ở Trung Đông
Fareed Zakaria
TIME, 03/02/2011
http://www.time.com/time/world/article/0,8599,2045888,00.html
Khi Frank Wisner,
nhà ngoại giao Hoa Kỳ kỳ cựu và đặc phái viên của tổng thống Obamar gặp Hosni
Mubarak hôm thứ Ba, 1 tháng2, quang cảnh này chắc đã quen thuộc với cả hai người.
Trong 30 năm, các nhà ngoại giao Hoa Kỳ đã đi vào một trong những nơi giàu có
nhất ở Heliopolis, một vùng lân cận Cairo từ đó Mubarak thống trị Ai cập. Tổng
thống Ai cập đã tiếp đãi người Mỹ nồng nhiệt, và hai bên bắt đầu bàn bạc về những
quan hệ Mỹ Ai cập và số phận của nền hòa bình Trung Đông. Rồi khi đó người Mỹ
có thể nhẹ nhàng nêu lên vấn đề cải cách chính trị. Tổng thống sẽ nóng mặt lên
và độp lại, “Nếu tôi làm điều các ngài muốn, bọn chính thống Islamist sẽ cướp
chính quyền.” Cuộc đàm đạo sẽ trở về những khúc quanh mới nhất trong quá trình
hòa bình.
Hoàn toàn có khả năng một phiên bản của cuộc trao đổi
này đã diễn ra hôm thứ ba vừa qua. Mubarak chắc đã cảnh cáo Wisner rằng không
có ông ta, Ai cập sẽ làm mồi cho chủ nghĩa cực đoan của Muslim Brotherhood,
phong trào chính trị Islamist Ai cập. Ông ta đã thường xuyên nhắc nhở các vị
khách của công trình toi tiền của Mỹ ở Iran năm 1979, khi
nó hủy bỏ viện trợ cho một đồng minh trung thành, Shah, để
rồi thấy chế độ ấy bị thay thế bới một chế độ chính trị thần quyền chống Mỹ tệ
hại. Nhưng lần này, nhà ngoại giao đã có lời đáp khác đối với những lý lẽ của Tổng
thống Ai cập. Đó là thời gian cho sự chuyển đổi bắt đầu.
Và đó là thông điệp mà Obama chuyển tới Mubarak khi hai
bên nói chuyện qua điện thoại ngày 1 tháng 2. “Đó là một cuộc chuyện trò gay gắt,”
một quan chức chính quyền (Mỹ) nói. Đội cận vệ an ninh quốc gia laoax luyện tụ
tập xung quanh máy nói trong Văn phòng Bầu dục để nge cuộc nói chuyện. Mubarak
làm tõ cuộc nổi dậy đã gây khó khăn cho riêng cá nhân ông ta như thế nào. Obama
ép nhà lãnh đạo Ai cập phải kiềm chế không được có bất cứ đối phó bạo lực nào với
hàng trăm nghìn người trên các đường phố.Nhưng một ngày sau đó, những đường phố
này, đã yên tĩnh một cách lạ thường kể từ khi các cuộc biểu tình bắt đầu - chuyển
sang bao lực. Ở Cairo, những người ủng hộ Mubarak- trong số đó có những
người xông vào đám đông trên lưng ngựa, bắt đầu đánh đập những người biểu tình
Đó là một điều nhắc nhở rằng tiến trình chính xác mà cách
mạng Ai cập sẽ đi theo trong những ngày những tuần sắp đến không thể nào biết
được. Sự đụng độ giữa các nhóm ủng hộ và chống đối chính phủ đánh dấu một
giai đọa mới trong cuộc xung đột này. Chế độ có nhiều người sống nhờ sự bảo trợ
của nó, và họ có thể chiến đấu để giữ gìn chính quyền của họ.Nhưng phái đối lập
hiện giờ đầy nghị lực và có quyền hành động. Và thế giới - và Hoa Kỳ - đã đặt
Mubarak vào tầm chú ý.
Dù cho điều gìxảy ra trong mấy ngày tới, cũng sẽ khồng
thay đổi câu chuyệ trung tâm của cách mạng A rập. Các nhà sử họ sẽ ghi
chú rằng ngày 25 tháng Giêng đánh dấu bắt đầu của sự kết thúc 30 năm cầm quyền
của Mubarak. Và bây giờ chúng ta sẽ thử nghiệm lý thuyết mà các nhà chính khách
và các học giả đã từ lâu tranh cãi. Một nước Ai cập dân chủ hơn có thể trở
thành một nhà nước Islamic cực đoan không? Một nền dân chủ có thể hoạt động
trong thế giới A rập hay không?
2
Lạc hậu, tham nhũng, yêu chuộng
hòa bình.
Không mấy ai nghĩ nó lại có thể
trở nên thế này. Ai cập từ lâu đã được coi như một xã hội tôn trọng quyền uy,
có một nhà nước mạnh và một bộ máy quan liêu có thể là hủ lậu và tham nhũng
nhưng vẫn giữ được hòa bình. “Đây là một đất nước có kỷ lục nổi bật về ổn định
chính trị” Fouad Ajami viết trong một tiểu luận năm 1995, chỉ ra rằng trong hai
trăm năm qua, Ai cập chỉ được cai trị bởi hai chế độ, quân chủ thành lập 1805
và Phong trào các Sĩ quan Tự do, nắm chính quyền năm 1952, với Gamal Abdel
Nasser. (Để so sánh: Pháp đã trải qua một cuộc cách mạng, hai đế chế, năm nền cộng
hòa, và một nền độc tài nửa phát xít trong khoảng thời gian gần đúng như thế)
Trong trí tưởng tượng của nhiều người, người Ai cập là giống người thụ động,
ngoan ngoãn thần phục tôn giáo và tôn ti trật tự. Nhưng vào cuối tháng Giêng,
các đường phố Cairo và Alexandria và các thành phố khác ngập đầy những người
khác nhau: những đám đông gồm những con người mãnh liệt, ý chí sắt thép từ mọi
tầng lớp xã hội và có cả một số phụ nữ, tất cả đều quyết tâm làm nên số phận của
họ và trở thành những người chủ vận mệnh của chính họ.
Điều gì đã thay đổi? À, những
người Ai cập chưa bao giờ dễ bảo như người ta vẫn nghĩ về họ. Xã hội Ai cập đã
sinh ra nhiều hoạt động chính trị, từ Hồi giáo cực đoan đến marxist đến chủ
nghĩa dân tộc A rập, đến chủ nghĩa tự do. Nhưng ngay từ cuối những năm 1950, chế
độ Ai cập đã đàn áp thẳng tay xã hội dân sự của nó, cấm các chính đảng hoạt động,
đóng cửa báo chí, bỏ tù các nhà chính trị, làm hư hỏng các quan tòa và bịt miệng
giới trí thức. Trong ba thập kỷ qua, Ai cập đã trở thành nơi có rất ít sách
nghiêm túc được xuất bản, các trường đại học bị giám sát, các báo thận trọng
theo một đường lối nhu mì, và người ta chăm chú theo dõi những gì họ đưa ra
công luận. Trong 20 năm qua, cuộc chiến chống các nhóm khủng bố Islamist - thường
là những kẻ sát nhân thật sự man rợ - cho phép chế độ Mubarak đè nén mạnh hơn đối
với xã hội Ai cập dưới danh nghĩa an ninh.
Cải
cách và cách mạng
Ai cập đã có một số thành công,
và thật mỉa mai, một trong số đó đã giúp khích lệ sự thay đổi. Trong thập kỷ
qua, Ai cập đã cải cách nền kinh tế của nó. Từ giữa những năm 1990 trở đi, Ai cập
đã thấy rằng để được vay từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới, nó phải
dỡ bỏ những bộ phận ít hiệu quả nhất của hệ thống kinh tế có hơi hướng xã hội
chủ nghĩa. Trong những năm gần đây, Mubarak - được con trai ông ta là Gamal, một
nhà ngân hàng được đào tạo ở Phương Tây, thuyết phục - đã chỉ định một nhóm các
nhà cải cách mạnh mẽ cho nội các của ông ta, họ bắt đầu một cố gắng đầy tham vọng
để tái cấu trúc nền kinh tế Ai cập, giảm thuế và thuế quan, bỏ những quy chế và
giảm bao cấp. Nước Ai cập đang thoi thóp bắt đầu vùng dậy mạnh mẽ. Từ 2006 đến
2008, kinh tế tăng trưởng 7% một năm và ngay cả năm ngoái, sau cuộc khủng hoảng
kinh tế, tăng trưởng lên tới gần 6%. Bị cách li lâu dài sau bức tường bảo hộ, với
truyền thông nằm trong kìm kẹp của chế độ, Ai cập cũng trở nên kết nối nhiều
hơn với thế giới thông qua các công nghệ truyền thông mới.
Tại sao tiến bộ kinh tế lại
thúc đẩy chống đối? Tăng trưởng khuấy động mọi sự, làm rối loạn trật tự ổn định,
tù đọng và tạo ra những bất công và tình trạng không chắc chắn. Nó cũng tạo ra
nhiều mong đợi và đòi hỏi mới. Tunisia không tăng trưởng mạnh mẽ như Ai cập,
nhưng ở đó cũng có một trật tự cũ mục nát đã bị xé toang ra, và dẫn đến một
tình trạng náo động chứng tỏ có quá nhiều thứ chế độ cần phải xử lý. Alexis de
Tocqueville đã từng nhận xét rằng “Thời khắc nguy hiểm nhất cho một chính phủ tồi
tệ là khi nó bắt đầu tự cải cách nó.” Đó là một hiện tượng mà các nhà khoa học
chính trị đã đặt cho cái tên “một cuộc cách mạng của những mong đợi đang tăng
lên” các chế độ độc tài cảm thấy chúng rất khỏ xử lý được những thay đổi, bởi
vì cấu trúc quyền lực mà chúng đã thiết lập không thể đáp ứng được những đòi hỏi
mới và mãnh liệt từ nhân dân của chúng. Ở Tunisia đã là như vậy, ở Ai cập đã là
như vậy. Sự thất nghiệp của tuổi trẻ và giá cả thực phẩm tăng cao là những
nguyên nhân trực tiếp, nhưng xu hướng cơ bản là một khối quần chúng bất trị
đang lớn lên, bị khuấy động bởi những làn gió kinh tế mới mẻ, được liên hệ với
một thế giới rộng lớn hơn. (Lưu ý rằng những nước tù đọng hơn như Syria và Bắc
Triều Tiên vẫn còn ổn định hơn.)
Mubarak kết hợp những chuyển động
tiến lên trong kinh tế với một loạt bước thụt lùi tàn tệ về chính trị. Sau khi
đã có những cuộc bầu cử quốc hội tương đối cởi mở năm 2005, chế độ đã đi ngược
dòng và gian lận trong các cuộc bầu cử năm 2010, giảm số ghế đại biểu của Muslim Brotherhood trong quốc hội từ 88
xuống zêrô. Ayman Nour, người tranh cử với Mubarak trong cuộc bầu cử tổng thống
năm 2005, bị bắt vì những cáo buộc vu khống, bị cầm tù, bị tra tấn và cuối cùng
được thả năm 2009. Mubarak đã nới ra đôi chút tự do ngôn luận và tự do hội họp
trước và sau những cuộc bầu cử năm 2005, sau đó lật ngược những gì mới hơi hé mở.
Các quan tòa và các luật sư đối lập với chế độ bị ngược đãi, khủng bố.
3
Trong vấn đề gay cấn về kế tục
chính trị, Mubarak làm nhiều người Ai cập thất vọng cay đắng, trong đó có nhiều
thành viên của nội các, những người tin rằng năm 2011 sẽ là năm chuyển sang một
Ai cập không có ông ta. (Nói rõ ra, nhiều người trong đội ngũ thân cận của ông
ta hy vọng rằng thủ lĩnh của họ, Gamal Mubarak, có thể sẽ vươn lên trong một
không khí chính trị có kiểm soát. Nhưng ngay cả họ cũng đã nghĩ rằng chế độ này
lẽ ra đã phải trở nên cởi mở hơn nhiều.) Năm ngoái, Mubarak ra tín hiệu rằng
ông ta có ý định ứng cử thêm nhiệm kỳ thứ sáu nữa, mặc dù đã 82 tuổi và sức khỏe
kém. Đó là dấu hiệu cho biết dù kinh tế có thể tiến bộ như thế nào, thì cải
cách chính trị nghiêm chỉnh vẫn là điều không thể nghĩ tới.
Trường
hợp Hy vọng
Giả sử
Mubarak đã tuyên bố hứa không ứng cử thêm một nhiệm kỳ nữa vào năm ngoái chứ
không phải vào 1 tháng Hai năm nay, thì chắc ông ta đã được hoan hô như một nhà
cải cách dẫn dắt nước ông vào một kỷ nguyên mới. Hôm nay, thì điều ấy là quá nhỏ,
quá muộn. Nhưng thanh danh của ông ta phụ thuộc nhiều vào loại chế độ nào sẽ kế
tục ông ta. Nếu Ai cập không rơi vào hỗn loạn hay trở thành một nhà nước thần
quyền theo kiểu Iran, thì nhân dân sẽ nhìn lại chế độ Mubarak một cách quý mến.
Trớ trêu thay, nếu Ai cập làm tốt hơn nữa và trở thành một nền dân chủ hiệu quả,
thì cái di sản của ông ta , một nhà độc tài đã thống trị đất nước trước khi nó
chuyển thành tự do, sẽ hỗn tạp hơn nhiều.
Nó sẽ
trở thành cái nào? Bất kỳ ai đưa ra những tiên đoán với lòng tin chắc đều đang
liều lĩnh một cách điên rồ. Ai cập là một đất nước rộng lớn và phức tạp, và nó
đang ở giữa một quá trình thay đổi không thể đoán trước. Chắc chắn có những dấu
hiệu lộn rộn rắc rối. Khi Trung Tâm nghiên cứu Pew điều tra nghiên cứu thế giới
A rập vào tháng Tư vừa qua, nó thấy rằng người Ai cập có những quan điểm sẽ đập
vào mắt Phương Tây như quá khích. Pew thấy rằng 82% người Ai cập ủng hộ việc
ném đá như một hình phạt đối với tội ngoại tình, và 84% ủng hộ án tử hình đối với
những người Hồi giáo bỏ đạo, và trong cuộc đấu tranh giữa “hiện đại hóa” và
“chính thống,” 59% đồng ý với chính thống.
Điều
đó là đủ để người ta phải lo lắng về sự vùng lên của một chế độ kiểu Iran. Chỉ
có điều đây không phải là tất cả những gì mà cuộc điều tra của Pew cho thấy. Một
cuộc thăm dò ý kiến năm 2007 thấy rằng 90% người Ai cập ủng hộ tự do tôn giáo,
88% ủng hộ việc xét xử không thiên vị, và 80% ủng hộ tự do ngôn luận; 75% chống
kiểm duyệt, và theo báo cáo năm 2010 đại đa số tin rằng dân chủ được ưa thích
hơn bất kỳ loại chính phủ nào khác.
Tôi vẫn
cứ tin rằng nỗi lo sợ về một nhà nước thần quyền Ai cập đã bị thổi phồng quá
đáng. Iran Shi'ite không là kiểu mẫu cho bất cứ nước nào, chắc chắn nó
không là kiểu mẫu cho một xã hội A rập Sunni như Ai cập. Dân tộc này đã thấy cả
Mubarak lẫn mullahs của Iran và không
muốn bất cứ ai trong hai thứ đó. Có vẻ có khả năng hơn, là một viễn cảnh một nền
“dân chủ tự do” trong đó Ai cập có tự do tương đối và bầu cử công bằng, nhưng
cái đa số được bầu lên hạn chế các quyền cá nhân và quyền tự do, cắt bỏ xã hội
công dân và sử dụng nhà nước như công cụ quyền lực của nó. Nói cách khác, nguy
hiểm ở chỗ nó ít “Iran” mà lại nhiều “Nga” hơn.
Hy vọng
của tôi là Ai cập tránh được con đường đó. Thành thật tôi không thể nói với bạn
là nó sẽ tránh được. Nhưng có nhiều bằng chứng gợi lên rằng nền dân chủ ở Ai cập
có thể hoạt động được. Trước tiên, quân đội, vẫn còn hoàn toàn thế tục, sẽ ngăn
cản mọi cố gắng tạo ra một trật tự chính trị tôn giáo. Quân đội Ai cập có thể
chống lại những cố gắng của những người dân chủ nhằm loại bỏ một số yếu tố của
nền độc tài quân sự - vì những kẻ đặc quyền đặc lợi của các lực lượng vũ trang
đã được hưởng quá nhiều lợi lộc từ chế độ đó - nhưng nó đủ mạnh và hợp lòng dân
để có khả năng ngừng lại ở một điểm nào đó. Ở Ai cập, và ở Thổ Nhĩ Kỳ, quân đội
có cơ hội để đóng vai trò sống còn trong việc hiện đại hóa xã hội và ngăn chặn
sự thái quá của chính trị tôn giáo.
4.
Xã
hội công dân Ai cập phong phú, phức tạp và có trong lòng nó giọng điệu tự do
phóng khoáng dai dẳng liên tục. từ thời Napoleon xâm lược Ai cập năm 1798, người
Ai cập đã muốn bắt kịp Phương Tây. Các trào lưu tự do của tư tưởng và chính trị
đã nhiều lần nở hoa trên đất nước này - nổi bật nhất là các thập kỷ 1880, 1920,
và 1950. Luật Cơ bản Ai cập năm 1882 tiến tiến hơn hầu hết các hiến pháp của
các nước châu Á và Trung Đông vào thời kỳ ấy.
Ai cập cũng giữ được một số yếu
tố cốt lõi của một trật tự tự do theo hiến pháp, trong đó chủ yếu là hệ thóng
tư pháp đã đấu tranh chống sự lạm quyền nhà nước trong nhiều thập kỷ. Trong một
cuốn sách hấp dẫn và hợp thời năm 2008, Ai
cập hậu Mubarak Bruce Rutherford của Đại học Colgate đã mô tả chi tiết cuộc
đấu tranh lâu dài và bền bỉ của tư pháp để khắc họa vai trò độc lập của bản
thân nó, ngay cả dưới một nền độc tài quân sự. Những chuyển động gần đây của nền
kinh tế theo hướng cởi mở hơn và dựa trên thị trường cũng tạo ra một tầng lớp
tinh hoa kinh doanh mới có một vai trò nhất định trong trật tự tự do hiến định.
Tất nhiên cũng có khả năng những
cải cashc kinh tế ấy sẽ không tiếp tục nữa. Giống như ở nhiều nước, các chính
sách hủy bỏ bao cấp và dỡ bỏ các ngành công nghiệp được bảo hộ gây nên nỗi lo
âu của công chúng và tạo nên tâm trạng chống đối từ những đầu sỏ chính trị
trong kinh doanh (những kẻ này té ra chính là những kẻ đã từng được bảo hộ).
Nhưng vì Ai cập cần phát triển kinh tế, nên vận động cơ bản theo hướng tự do
hơn cho thị trường sẽ không có khả năng quay ngược. Những chính sách như thế
đòi hỏi có những đạo luật và những tòa án tốt hơn, cộng với những cố gắng để xử
lý tham nhũng và cải thiện giáo dục. Và với thời gian, chúng sẽ tạo ra một tầng
lớp trung lưu độc lập hơn với nhà nước.
Sức
hấp dẫn và những hạn chế của Hồi giáo.
Còn lại thách thức thật sự là
vai trò của Hồi giáo, của chủ nghĩa chính thống Islamist và Muslim Brotherhood.
Hồi giáo có một sức hấp dẫn đặc biệt ở Ai cập và rộng hơn, trong thế giới A rập,
nhưng hiểu lý do tại sao là điều quan trọng. Các nhà độc tài thế tục đã cai trị
những mảnh đất này nhiều thập kỷ và đã đàn áp man rợ tất cả các hoạt động chính
trị. Chỉ có một nơi mà chúng không thể đóng cửa là các nhà thờ Hồi giáo, bởi vậy
những nơi đó trơ thành trung tâm hoạt động và thảo luận chính trị, và Hồi giáo
trở thành tiếng nói đối lập.
Điều này không phải là phủ nhận
rằngđối với nhiều người Ai cập, “Hồi giáo là giải pháp” nư khẩu hiệu của Muslim
Brotherhood tuyên bố. nhưng nhóm này có một sức cám dỗ trong xã hội Ai cập nói
chung bởi vì nó đã bị khủng bố và bị cấm nhiều thập kỷ. Một khi nó phải cạnh
tranh trên thị trường tư tưởng, nó có thể thấy rằng, giống như trong nhiều nước
Hồi giáo, nhân dân quan tâm nhiều hơn đến vấn đề năng lực của chính phủ, tham
nhũng và tăng trưởng hơn là những tuyên bố lớn lối về ý thức hệ.
Những vấn đề thiết thân này
đang nằm ở trung tâm các cuộc chống đối không chỉ ở Ai cập mà cả ở Tunisia. Thật
hấp dẫn khi được theo dõi cái huyền thoại “đường phố A rập” cuối cùng đã bùng
ra một cách tự phát và tự do. Hóa ra không phải nó bị phá hủy bằng quá trình
hòa bình Trung Đông hay người Palestin. Người Israel phản ứng với sự náo loạn ở
Ai cập bằng tâm trạng lo sợ, họ tin rằng bất kỳ thay đổi nào cũng đều có nghĩa
là mất an ninh đối với nước họ. Điều đó đúng đên một mức độ nào đó. Hòa bình giữa
Ai cập và Israel chưa bao giờ là giữa hai dân tộc, mà chỉ là giữa hai chế độ của
họ. Israel có thể phải tự hỏi nó phải theo đuổi chính sách nào để tạo ra ổn định
với một nước Ai cập dân chủ. Khó lòng có thể có thuốc trị bách bệnh, nhưng giá
Israel đưa ra cách xử lý mà người Palestin chấp nhận, thì chắc chắn nó sẽ giúp
thuyết phục Ai cập rằng Israel không tìm cách áp bức người Palestin.
Thách thức đối với Israel là
thách thức đối với Hoa Kỳ. Thái độ chung của công chúng Ai cập đối với Mỹ đã bị
đầu độc bởi những năm Washington hậu thuẫn những nhà độc tài và giúp đỡ đối với
Israel. Cả Mỹ nữa cũng sẽ phải hỏi nó sẽ phải làm gì để có quan hệ tốt hơn với
không chỉ tầng lớp thượng lưu quân sự mà với nhân dân Ai cập. và nó sẽ phải
tránh phản ứng thái quá - giống như ở Israel - chụp cho mọi chuyển động về phía
bảo thủ xã hội cái mũ thánh chiến Hồi giáo. Yêu cầu phụ nữ đeo mạng che mặt
khác với bảo đàn ông đeo thắt lưng mang bom tự sát. Nếu Mỹ chống lại mọi biểu
hiện của lòng mộ đạo, thì nó sẽ thấy bất lực không hiểu được hay hành động với
một Trung Đông mới, dân chủ hơn.
Khía cạnh thú vị nhất của các
cuộc biểu tình ở cả Tunisia và Ai cập là vai trò của Mỹ trong trí tưởng của
công chúng sao mà nhỏ bé lu mờ đến thế. Những người trên đường phố chủ yếu
không quan tâm đến Mỹ, mặc dầu Obama đã trở thành một tiêu điểm khi đã rõ là
ông có thể giúp đẩy Mubarak xuống. Ở Tunisia, Mỹ thậm chí đóng một vai trò còn
bé hơn. Theo một nghĩa lạ lùng, điều này có thể là hậu quả của những quan điểm
của cả George W. Bush và Obama trong khu vực này. Sau sự kiện 11/9, Bush đã đặt
một tầm quan trọng đặc biệt vào vấn đề các nhà độc tài A rập theo một cách làm
cho chúng không thể bị lờ đi. Nhưng ông ta đã làm mất uy tín sự nghiệp của ông
ta với một chính sách ngoại giao cực kỳ mất lòng dân trong thế giói A rập (chiến
tranh Iraq, ủng hộ Israel v.v..). Năm 2005, Mubarak đã có thể làm nhục
các nhà hoạt động dân chủ bằng cách chỉ ra rằng họ có lý lẽ ủng hộ chương trình
của Mỹ đối với Ai cập.
Obama thì ngược lại, rút lui khỏi
vai trò hống hách, xâm lược của Mỹ, khiến cho các nhà dân chủ tự do Ai cập tìm
được tiếng nói của họ mà không bị chụp mũ là tay sai của Mỹ. (thậm chí gần đây
đám đông ủng hộ Mubarak còn cảnh cáo rằng “các lực lượng bên ngoài” đang cố làm
mất ổn định Ai cập, nhưng nó không có tác dụng.) Thật ra những cuộc biểu tình ở
Ai cập, Tunisia, Jordan và nhiều nơi khác đã cộng hưởng với công chúng rộng lớn
hơn của thế giới A rập bởi vì chúng xuất hiện từ bên trong, đã lớn lên một cách
hữu cơ và quan tâm đến điều kiện sống của người dân thường A rập.
Trong năm thập kỷ Trung Đông đã
là nơi nuôi dưỡng một diễn ngôn chính trị dựa trên những hệ tư tưởng lớn. Đối với
những người biểu tình Iran, Mỹ không phải chỉ là một nước hay thậm chí một siêu
cường mà chỉ là “com quỷ Sa tăng khổng lồ”. Những gì diễn ra ở Tunisia và Ai cập
có thể là sự quay trở về một nền chính trị bình thường hơn, được tiếp sức bằng
những thực tế của thế giới hiện đại, đã bén rễ trong hoàn cảnh của mỗi nước.
Theo nghĩa này, đây có thể là những cuộc cách mạng hậu-HoaKỳ đầu tiên.của Trung
Đông.
______________________________________________________
3
Một giai đoạn mới của sự bất ổn nguy hiểm
Daryl Lindsey
Spiegel, 01/02/2011
http://www.spiegel.de/international/world/0,1518,742936,00.html
Khi
các cuộc biểu tình lớn tiếp tục ở Cairo, các lãnh đạo Phương tây và Israel bắt
đầu về nghiền ngẫm điều có thể không tránh khỏi: Trật tự thế gới mới trong một
nước Ai cập hậu Mubarak. Trên trang xã luận của Đức hôm nay, các nhà bình luận
đưa ra những quan điểm trái ngược nhau về mối đe dọa Hồi giáo cực đoan ở nước
này
Hàng trăm ngàn người đứng chật
các đường phố thủ đô Ai cập một lần nữa vào hôm thứ Ba trong cái được coi là cuộc
biểu tình lớn nhất từ trước đến nay ở quảng trường Tahrir (Giải phóng) của
Cairo. Và một lần nữa, những người biểu tình đòi Hosni Mubarak, kẻ thống trị Ai
cập trong ba thập kỷ, từ chức.
“Mubarak có thể có da dày, nhưng chúng tôi có
móng tay nhọn,” đám đông gào lên. Người ta nghe thấy cả những tiếng hô “Cút!
Cút! Cút!”
“Chúng tôi đã ngửi thấy mùi tự do, và không thể
có thỏa hiệp nào nữa với Mubarak” một người biểu tình tên là Mustafa Amer, 35
tuổi, nói với SPIEGEL ONLINE.
Đó
là lời kêu gọi được nhắc đi nhắc lại bởi Mohamed ElBaradei, người được nhận giải
Nobel Hòa bình và cựu thủ trưởng Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế, người tự
đặt mình vào vị trí lãnh đạo cuộc chuyển đổi có khả năng xảy ra sau khi Mubarak
từ chức. Hãng tin Ai cập Al Arabiya đưa tin về những lời bình luận của
ElBaradei rằng Mubarak phải từ chức và ra khỏi nước để tránh đổ máu.
Những
người biểu tình cảm thấy được ủng hộ bởi một lời tuyên bố từ quân đội Ai cập
hôm thứ Hai rằng nó sẽ không bắn vào những người biểu tình trong những cuộc tuần
hành ngày thứ Ba. Quân đội cũng nói những người biểu tình có những “mối bất
bình hợp pháp.”
Sự
trục xuất lãnh đạo Tunisia hồi tháng Giêng qua một cuộc nổi dậy của dân chúng
đã khích lệ những cuộc biểu tình tương tự chống Mubarak ở Ai cập tuần qua. Nước
này đã ổn định dưới chế độ độc tài, nhưng chính phủ của ông ta đa bị lên án về
những vụ vi phạm nhân quyền lớn - trong đó có những vụ mà Tổ chức Theo dõi Nhân
quyền gọi là “tra tấn đặc hữu” ở nước này - và tham nhũng. Tuy nhiên, mục
tiêu chính của những người biểu tình được coi là đòi hỏi một điều kiện xã hội tốt
hơn ở một nước mà gần một nửa dân số sống dưới mức nghèo khổ 2$ một ngày. Dưới
triều Mubarak, khoảng cách giữa người giàu và người nghèo tiếp tục tăng cao. Tuần
trước, oán giận đã bùng nổ thành bạo lực ở Cairo, Alexandria, Suez và nhiều
thành phố khác.
Liên hiệp Quốc ước lượng 300 người chết.
Liên
hiệp Quốc ước lượng rằng cho đến nay đã có 300 người chết trong cuộc nổi dậy ở
Ai cập và trên 3000 người khác bị thương, theo Đại diện Cao cấp về Nhân quyền của
Liên Hiệp Quôc Navy Pillay. “Các chính quyền có một trách nhiệm rõ ràng bảo vệ
các công dân của mình, trong đó có quyền sống, quyền tự do hội họp và tự do
phát biểu,” Pillay nói, “Không được tùy tiện bắt giữ người chỉ đơn giản vì họ
phát biển chính kiến của họ, dù những ý kiến ấy có khó chịu cho những người
trong chính quyền đến mức nào.”
Nhưng
những cuộc biểu tình ngày thứ Ba cũng thu hút cả hàng trăm người ủng hộ
Mubarak. Theo phóng viên Spiegel, vào giữa trưa, có thể thấy khoảng 200 kẻ trung
thành ở quảng trường Tahrir. “Mubarak tốt hơn các người nghĩ” họ kêu to. “Chúng
tôi không muốn một chế độ thần quyền”, họ nói thêm, muốn nhắc đến nỗi sợ đối với
ảnh hưởng đang có khả năng lớn lên của phong trào Hồi giáo cực đoan
Brotherhood, gần đây bị cấm hoạt động như một chính đảng ở Ai cập. Những nỗi lo
lắng này được chia sẻ bởi các nhà lãnh đạo Israel và Phương Tây.
Một
khả năng [chính quyền] chuyển sang Hồi giáo cực đoan cũng là một chủ đề trong
các cuộc họp giữa Thủ tướng Đức Angela Merkel và Thủ tướng Israel Benjamin
Netanyahu ở Jerusalem hôm thứ Hai và thứ Ba. Đối với Israel, nguy cơ là cao.
Trong ba thập kỷ nó [chế độ này?] đã có một đồng minh quan trọng ở Netanyahu và
nếu các nhóm Islamist trỗi dậy, chúng dễ có những quan điểm phê phán mạnh hơn nhiều
đối với nước láng giềng của chúng.
“Trong
một tình trạng hỗn loạn, một nhóm Hồi giáo có tổ chức có thể chiếm một nước,”
Netanyahu nói hôm thứ Hai bằng những lời lẽ mạnh nhất của ông từ trước đến nay,
về tình hình ở Ai cập. “Nó đã xảy ra ở Iran. Một cuộc tiếp quản của Hồi giáo cực
đoan sau những chế độ độc tài áp bức….tạo ra một nguy cơ khủng khiếp cho hòa
bình và ổn định.”
Đức
và các nước Phương Tây khác đã từ lâu ủng hộ chế độ của Mubarak chính là vì họ
cảm thấy ông ta là bảo đảm tốt nhất để Ai cập không chuyển sang hướng Hồi giáo
cực đoan. Một số tờ báo đã lập luận rằng những mối lo ấy không phải là hoàn
toàn phi lý. Tờ báo bảo thủ Frankfurter Allgemeine Zeitung lưu ý rằng
trong khi các giọng nói chính trị đa nguyên có thể đang nổi lên ở Ai cập, cũng
chính nước này đã đưa ra cho thế giới cánh tay phải của Osama bin Laden là
Ayman al-Zawahiri, và Muhammad Atta, một trong những tên phi công tự sát trong
vụ 11 tháng 9.
Từ
báo trung tả Süddeutsche Zeitung viết:
Chính
phủ ở Jerusalem bây giờ phải tự tìm xem nó có thể làm gì để tháo ngòi nổ cái
nguy cơ mới chớm nở này. Đồng thời, nó cũng phải tự hỏi mình, chính xác điều gì
nó đã làm trong 30 năm qua trong đó hòa bình với Ai cập đã mở ra cơ hội để vươn
tới các hiệp định hòa bình khác. Israel đã ngạo mạn để mất cơ hội đó. Những cố
gắng để tìm một sự hòa giải với Syria đã bị hoãn lại, và một hiệp định với người
Palestin bị phá vỡ bởi việc xây dựng các khu định cư. Bây giờ chỉ còn lại đúng
hai khả năng: Israel có thể hoặc là đưa ra sáng kiến hòa bình mới để lái chính
quyền chuyển sang hướng tích cực. Hoặc nó sẽ chuẩn bị cho bản thân cho một giai
đoạn mới bất ổn nguy hiểm ở Trung Đông. Chính phủ ở Jerusalem nên được tư vấn tốt
để làm cả hai điều đó.”
Tờ
báo trung hữu Frankfurter Allgemeine Zeitung viết:
“Giống
như trường hợp ở Tunisia, gần đây ở Ai cập đã trở nên rõ ràng rằng những ai có
ý thức về chính trị thì suy nghĩ một cách có sắc thái hơn là rõ ràng có sẵn từ
bên ngoài. Nếu chủ nghĩa đa nguyên tốt đẹp hơn thực sự phát triển, nó sẽ cho thấy
rằng quang cảnh chính trị ở Ai cập không phải là một khối đồng nhất như trước
đây vẫn nghĩ. Hoặc là chế độ này hoặc là Brotherhood Hồi giáo, những quan điểm
bên ngoài như thế về sự lựa chọn đang đặt ra trước Ai cập. Mubarak và những
lãnh đạo khác của chế độ của ông ta có lợi trong việc duy trí ấn tượng này bởi
vì nó đảm bảo viện trợ không hạn chế từ Mỹ và sự hợp tác yên lành với các nước
châu Âu.
Tờ
báo đó cũng xem xét vấn đề một chủ nghĩa đa nguyên chính trị mới ở Ai cập sẽ có
nghĩa như thế nào với Israel:
“Một
Ai cập đa nguyên sẽ ít ngả sang chấp nhận các chính sách của Israel như Mubarak
đã làm mấy thập kỷ nay. Phần lớn những người biểu tình chắc chắn quan tâm chủ yếu
đến việc cải thiện xã hội và đến một quyền tự do ngôn luận về chính trị rộng
rãi hơn, Họ cũng căm ghét chế độ gia định trị này tương tự như sự ghê tởm của
nhân dân Tunisia đối với Ben Ali. Nhưng những mối đồng cảm với người Palestin
cũng như Hamas đang cai trị giải Gaza, chắc chắn cũng sẽ đóng một vai trò lớn
hơn. Nếu Hoa Kỳ, để làm cho chúng ta quên đi những cuộc bầu cử gần đây vận động
bằng mánh khóe, đòi hỏi những cuộc bầu cử công bằng trong tương lai gần, thì số
phiếu bầu có lẽ sẽ có lợi cho các lực lượng chỉ trích Israel. Trung Đông đang đứng
trước những thay đổi mà hậu quả hầu như không thể đoán trước.”
Tờ
báo phái tả Die Tageszeitung viết:
Mọi
thứ vào lúc này đều cho thấy việc Mubarak bật ra khỏi sân chơi chỉ còn là vấn đề
thời gian. Nhưng điều gì sẽ đến sau Mubarak? Một số người sợ hỗn loạn….
nhưng những nỗi sợ đang được gieo rắc ở một số nơi rằng Islamist sẽ chiếm lấy
chính quyền, đã bị phóng đại quá đáng. Ai cập năm 2011 không giống Iran năm
1979, khi phong trào Islamist cực đoan vươn lên nắm chính quyền sau khi hất cẳng
Shah.Trong khi có thể đúng là Muslim Brotherhood có lẽ chắc chắn đóng một vai
trò lớn hơn trong một nước Ai cập dân chủ, điều ấy không hề có nghĩa là nước
này sẽ chuyển thành một ‘nhà nước Hồi giáo.’ Muslim Brotherhood từ lâu đã từ bỏ
mục tiêu ấy rồi. Ta liban ở Afghanistan hay mullah ở Iran không còn là kiểu mẫu
cho phần lớn những người Islamist A rập nữa. Tất nhiên Al-Qaida cũng đã góp phần
gây tai tiếng Hồi giáo cực đoan. Ngày nay những người Isalmist có xu hướng về
chính phủ AKP của Thổ Nhĩ Kỳ, chính phủ này đã cho thấy có thể tìm một cân bằng
giữa Hồi giáo ôn hòa và các nguyên tắc dân chủ, và đã thắng trong các cuộc bầu
cử.
Tờ
báo bảo thủ Die Welt viết:
“Thật
đáng ngạc nhiên là bộ trưởng Ngoại giao Đức Guido Westerwelle bây giờ lại ủng hộ
mạnh mẽ dân chủ hóa ở thế giới A rập (biết rằng trong quá khứ Đức đã bao dung
các chế độc độc tài trong khu vực)… Việc điều chỉnh lại chính sách của Đức phản
ánh nhận thức rằng vẻ ngoài yên tĩnh và ổn định của các chế độ độc tài là nguy
hiểm bởi vì trong xã hội tích lũy một nỗi thất vọng khổng lồ, cuối cùng có thể
xả ra thành một vụ nổ. Không may, quan điểm này chưa bao giờ chiếm ưu thế trong
chính trị châu Âu. Việc cổ võ các chế độ độc tài để chúng thật sự mở cửa xã hội
của chúng hóa ra là quá mạo hiểm, và quá mất công.”
Ngày
nay châu Âu đã bị ném trứng thối vào mặt và buộc phải thừa nhận rằng trong nhiều
thập kỷ các chính sách của nó đã nhằm chống lại nhân dân các nước A rập. Do đó
Westerwelle đã làm một thay đổi theo chiều hướng vô cùng cần thiết. Nhưng chỉ
tìm lời nói cho hay thì không đủ. Trong khi tình hình ở Ai cập còn đang trong
tình trạng nguy ngập, thì các thay đổi đã tiến lên ở Tunisia. Châu Âu nên đưa
ra những giúp đỡ cụ thể cho đất nước này. ..Châu Âu nên đầu tư nhanh nhất có thể
được vào các cải cách của Tunisia. Dù sao, thí nghiệm Tunisia thành công - có
thể tiếp ngay sau đó là một thí nghiệm Ai cập - cũng là mối quan tâm của tất cả
mọi người.
Tờ
báo thiên tả Berliner Zeitung viết:
“Châu
Âu là lục địa đã phát minh ra quyền con người. Người châu Âu đã cố gắng để
giành được cho mình hòa bình, thịnh vượng và pháp trị ở hầu như khắp nơi -- họ
thật may mắn. Người ta có thể tưởng tượng họ sẽ hạnh phúc cho phần còn lại của
thế giới cũng được hưởng những điều như của họ. Nhưng dường như chỉ với điều kiện
việc cổ võ nhân quyền và dân chủ không đưa lại cho họ bất kỳ hiểm nguy hay khó
chịu nào.”
“Ai
cập, Ma rốc, Algeria, Tunisia và Lybia có thể luôn luôn trông mong vào sự thật
là ách áp bức của họ không được nêu lên quá lớn tiếng bởi những người châu Âu.
Có hai lý do cho điều này: nỗi sợ những cuộc tấn công khủng bố Islamist và những
cố gắng của châu Âu ngăn chặn nhập cư bất hợp pháp. Với hai mối bận tâm ấy
trong tâm trí, các chính phủ châu Âu phớt lờ sự áp bức trong khu vực Maghreb của
Bắc Phi. Họ im lặng đồng lõa với bắt bớ, tra tấn và trục xuất. Tất cả được biện
hộ bằng lý lẽ rằng ổn định là quan trọng - nhưng chúng ta lẽ ra đã nên nhận thức
rằng thay đổi chính trị đã quá chậm trễ, mà ngăn chặn nó thì có thể chỉ càng cổ
võ cho cực đoan hóa thôi.
“Bây
giờ những người biểu tình dũng cảm đã làm chúng ta tỉnh ngộ khỏi những lầm lẫn
của chúng ta. Niềm khát khao tự do của họ, sự không sợ hãi của họ đã phơi bày
tính hai mặt của những người Âu.”
Các nhà độc tài khôn ngoan không đàn áp Internet
Smart Dictators Don't Quash the Internet
EVGENY MOROZOV
Wall
Street Journal, 19/02/2011
Nguồn:
http://online.wsj.com/article/SB10001424052748704657704576150653606688990.html
Người dân Ai Cập ở quảng trường Tahrir vui mừng khi nghe tin Hosni Mubarak đã từ chức. Những người biểu tình ở Ai Cập may mắn vì chính phủ không biết nhòm ngó vào Tweet.
Mubarak chẳng biết gì về cách chống lại sức mạnh của các mạng xã hội. Trung Hoa, Nga và Iran biết rõ hơn.
Cái
chết thê thảm của Khaled Said, 28 tuổi, người thanh niên vào tháng 6, 2010 bị
lôi ra khỏi một tiệm cà phê Internet và bị cảnh sát Ai Cập đánh chết - là sự kiện
kích động giới trẻ Ai Cập, thúc đẩy họ chia sẻ nỗi bất bình trên Facebook. Một
nhóm mang tên “Tất cả chúng ta là Khaled Said” đã nhanh chóng lên tới hàng trăm
nghìn thành viên và đóng vai trò là phương tiện trong việc thúc đẩy các cuộc biểu
tình chống đối cuối cùng đã quét Hosni Mubarak ra khỏi chính quyền.
Kinh
nghiệm Ai Cập gợi ý rằng các mạng thông tin xã hội có thể thúc đẩy rất nhanh
cái chết của những chế độ độc tài đang hấp hối. Nhưng trong khi việc nhận thức
vai trò của Internet trong cuộc nổi dậy ở Ai Cập là quan trọng, chúng ta không
nên bỏ qua sự kiện là những người chống đối ấy có cái may mắn là chính phủ của
họ không biết một tiếng kêu từ một cú thọc - như được minh họa có lẽ nhiều nhất
bằng hành động tuyệt vọng (và chậm trễ) trong việc tạm thời đóng cửa đất nước đối
với thế giới bên ngoài. Cú đánh chết tươi mà Internet đã giúp giáng vào chế độ
Mubarak dễ thúc đẩy các ông bạn bạo chúa đuổi kịp những phát triển mới nhất ở
Thung lũng Silicon và học cách tuyên truyền trên mạng.
Ta
cứ coi vụ Khaled Said là tai nạn ngẫu nhiên. Mặc dầu hai sĩ quan cảnh sát bị
nghi ngờ đã đánh Said cuối cùng đã bị bắt, chính phủ Ai Cập đã làm ngơ cơn giận
dữ của cư dân mạng quá lâu. Cơn giận đó đã nguôi đi, nhưng nó không bao giờ biến
mất, sự cổ võ của các sự kiện ở Tunisa đã giúp nó lại bùng lên mạnh mẽ.
So
sánh kinh nghiệm Ai cập với một trường hợp tương tự ở Trung Hoa năm 2009 Li
Qiaoming một nông dân 24 tuổi bị bắt vì đốn gỗ bất hợp pháp, ít lâu sau bị báo
cáo là đã chết. Cảnh sát nói với cha mẹ của Li, một cách khó tin, rằng anh đã
đâm đầu vào tường trong khi chơi trò trốn tìm với các bạn tù. Sự cố này nhanh
chóng tạo ra gần 100.000 comment chỉ trong một blog nổi tiếng của Trung Hoa, và
nhà cầm quyền phản ứng tức thì.
Thay
vì cố gắng đàn áp các cuộc nói chuyện trên mạng, họ vươn ra tới các công dân mạng
đang tức giận, mời họ ký đơn để trở thành thành viên của một ủy ban điều tra về
hoàn cảnh cái chết của Li. Tất nhiên ủy ban đó thật ra đã không được phép điều
tra gì hết, nhưng từ đó những bất ổn xã hội được dẹp yên.
Nhìn
lại, ta thấy những bước chặn trước mà chế độ Mubarak đã tiến hành để kiểm soát
Internet thật sốc biết bao. Không có những âm mưu kiểu Trung Hoa trong việc lọc
Internet, không có những thủ lĩnh tuyên truyền trên mạng kiểu Kremlin hoặc những
blogger được chính phủ trả tiền, hầu như không có cuộc tấn công ảo nào trên các
website của các blogger và các tổ chức hoạt động. Việc đánh phá Muabrak vào thế
giới của kiểm soát Internet chỉ là đánh đập và bỏ tù các blogger - một chiến
thuật chỉ giúp quảng bá cho sự nghiệp của họ.
Như
vậy không có gì đáng ngạc nhiên là các quan chức bị các cuộc biểu tình
làm cho bất ngờ, những cuộc biểu tình ấy hầu như được lập kế hoạch và thảo luận
công khai trên mạng. Chỉ sau khi phong trào trên mạng đã đạt được xung lực bên
ngoài mạng (offline) đầy ấn tượng trên quảng trường Tahrir, các thuộc hạ
của ông Mubarak mới quyết định cho đóng cửa Internet trong vài ngày, bộc lộ rõ
hơn sự bất lực của họ. Không phải là chế độ Ai Cập đã bại trận trên mạng. Trước
hết là, họ đơn giản chưa bao giờ đi vào trận đấu đó. Không phải là Internet đã
hủy diệt Mubarak - chính sự không biết gì về Internet của Mubarak đã hủy diệt
Mubarak.
Các
chế độ độc tài khác đang nhận tín hiệu từ những sự kiện Ai Cập, xiết chặt thêm
việc kiểm soát Internet của họ. Chính phủ Syria đã dỡ bỏ lệnh cấm Facebook và
YouTube, trên danh nghĩa là sự “nhượng bộ” đối với các nhóm đối lập - nhưng hầu
như chắc chắn việc này được làm để dễ dàng theo dõi hơn những người bất đồng
chính kiến công khai. Trong khi cấm, những người bất đồng chính kiến của Syria
vẫn luôn luôn có thể truy cập Facebook bằng cách sử dụng nhiều công cụ để lừa
kiểm duyệt và che dấu nhân thân của họ. Điều ấy khiến cho Facebook chậm đi và cồng
kềnh khó sử dụng, nhưng nó tăng thêm bảo vệ cho họ khỏi con mắt xoi mói của cảnh
sát Syria. Bây giờ lệnh cấm đã được dỡ bỏ, dân chúng nói chung sẽ kéo vào
Facebook và phơi mình ra trước sự chú ý theo dõi của chính quyền.
ở
Sudan, Oman Al-Bashir đã hứa mở rộng mạng điện ra các vùng xa xôi của đất nước
để cho những người ủng hộ ông ta có thể lên mạng và bảo vệ ông ta trên
Facebook. Trong khi đó, các quan chức cảnh sát của nước này đã phát tán những
thông tin sai về các cuộc biểu tình qua các site mạng xã hội và các tin nhắn để
nhử vào sau đó bắt bất kỳ kẻ nào lộ diện ở nơi hẹn gặp đã được thông báo.
Sau
các cuộc biểu tình trong tuần này ở Bahrain, Twitter tràn ngập những tuyên truyền
thân chính phủ trong một âm mưu được che đậy vụng về để biến nó thành một nguồn
tin ít đáng tin cậy về những cuộc biểu tình. Về phần nhà cầm quyền Iran, họ đã
học được bài học từ cuộc nổi dậy năm 2009 và đã tạo ra một chiến lược kiểm soát
Internet toàn diện nhất ở Trung Đông, thành lập những đơn vị “công an mạng” đặc
nhiệm và thí nghiệm với những kỹ thuật giám sát Internet tiên tiến nhất thậm
chí có thể cho họ phát hiện ra những người bất đồng chính kiến đang sử dụng các
công cụ chống kiểm duyệt.
Vấn
đề Internet khẩn cấp nhất đối với nhiều nhà độc tài hiện nay là làm gì với những
website mạng xã hội Hoa Kỳ như Facebook. Nhiều người dứt khoát đi theo sự dẫn dắt
của Nga và Trung Hoa, những nước đã khuyến khích những kẻ cạnh tranh “người
nhà”. Một nhóm trên mạng kêu gọi lật đổ chính phủ Nga đã không sống sót được
lâu trên Vkontakte - mạng thay thế Facebook ở Nga.
Các
site của mạng xã hội Nga đã chi phối quang cảnh trên mạng trong hầu hết các nước
cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, và hầu như không thể có chuyện chúng sẽ đứng về phe
những người biểu tình vì dân chủ. Tháng Chạp năm 2010, khi những cuộc biểu tình
chống chính phủ sôi lên ở Belarus sau cuộc bầu cử tổng thống có nhiều nghi ngờ,
một nhóm trên mạng ủng hộ một trong những ứng cử viên bỗng biến mất một cách bí
ẩn khỏi Vkontakte, làm các nhóm đối lập mất đi một công cụ quan trọng để động
viên những người cảm tình.
Ở
Việt Nam, chính phủ đã cấm Facebook và khởi động site riêng của nó với cái tên
kinh khủng goonline.vn, hy vọng biến nó thành mạng xã hội phổ biến nhất do nhà
nước quản lý trong nước này.
Xét
những thành công tương đối của Moscow và Bắc Kinh trong việc chế ngự tiềm năng
dân chủ trên mạng, dường như các nhà độc tài học rất nhanh và có khả năng hoàn
hảo làm chủ Internet. Chỉ có cách đoán trước phản ứng của họ thì những ai trong
chúng ta quan tâm đến dân chủ ở Phương Tây có thể làm cho những phương pháp của
họ bớt hiệu quả. Dầu sao thì những chế độ này đã quay sang các công ty và các cố
vấn Phương Tây đế xin những lời khuyên về công nghệ đàn áp.
Say
sưa chiến thắng về những sự kiện gần đây ở Trung Đông là quá sớm. Cuộc đọ sức mới
ở giai đoạn đầu, và một thời đại mới của dân chủ hóa do Internet thúc đẩy sẽ tồn
tại chỉ khi chúng ta học được cách chống lại những biện pháp tinh vi đang được
phát triển để dẹp bỏ nó.
Cuộc trở lại của những người Islamists
Một dạng tự do đáng ngờ cho Bắc Phi
Ảnh: AP
Những kẻ độc tài đã ra đi, nhưng ai sẽ thừa kế quyền lực ở
Libya, Tunisia và Ai Cập? Ảnh hưởng của Islamist là rất lớn trên khắp khu vực
và các nhóm chính trị bảo thủ đang phô trương sức mạnh. Những tháng tới đây sẽ
quyết định Bắc Phi có thể ủng hộ dân chủ đến đâu.
Những hòm đạn
nay trống rỗng sau cuộc chiến đấu gần đây được chất đống bên ngoài các trại
lính ở sân bay Tripoli. Một trong các vị khách, mặc đồng phục quân đội, đang ngồi
trong một chiếc ghế da sang trọng bên trong tòa nhà. Ông ta dận đôi úng lên tấm
thảm dày, nét mặt ông ta rắn rỏi như đá tạc. Người đàn ông nói một cách
chăm chú. Ông ta muốn mỗi câu ông ta nói ra được ghi vào băng video, và
không điều gì bị hiểu sai.
Trong nhiều
năm, các cơ quan tình báo Anh và Pháp đã săn lùng Abdel Hakim
Belhaj, chỉ huy lữ đoàn Tripoli của quân nổi dậy Libya, tin rằng ông ta là khủng
bố và đồng minh của lãnh tụ al Qaida lúc ấy là Osama bin Laden. Họ còn báo cáo
đã cho bắt ông ta, dẫn đến việc ông bị tra tấn bằng các syringe và nước lạnh
đóng băng. Tuy nhiên bây giờ Phương Tây và nhiều người Libya đang chăm chú theo
dõi và đang nghe từng lời ông ta nói.
"Trong thực
tế, đơn vị chúng tôi không có liên quan gì đến al-Qaida vào thời gian ấy" Abdel Hakim Belhaj nói. Belhaj, một cựu chiến binh trong chiến tranh
Afghanistan và cựu chỉ huy Đơn vị chiến đấu của Islamist Libya (LIFG), đơn vị
này đã bị chế độ của cựu lãnh tụ Libya Moammar Gadhafi khủng bố, phải chạy sang
ở Afghanistan trong nhiều năm. Belhaj, người Islamist dạn dày chiến trận, bây
giờ là chỉ huy của tất cả quân nổi dậy ở thủ đô Libya.
Người của ông
đi tuần trên những chiếc xe tải nhỏ, trang bị súng tự động trong khi các thủ
lĩnh dân sự của quân nổi dậy tìm cách vạch ra một con đường cho tương lai của đất
nước. Belhaj nói rằng chính quyền nằm "trong tay của nhân dân Libya,"
và người Libya bây giờ có thể quyết định họ sống cuộc đời của họ như thế nào.
"Chúng tôi muốn một đất nước thế tục" ông nói thêm. Nhưng nhiều người
Libya không tin một lời nào người Islamist này đang nói.
Những khác biệt sâu sắc
Dầu sao, có nhiều
chuyện để đánh cược hơn là chỉ vấn đề về ai là người đang nắm quyền. Đó là về định
hướng tương lai của Libya. Những cuộc nổi dậy của Mùa Xuân A Rập ở Bắc Phi đã kết
thúc, và theo sau những thay đổi chế đô ở Tunisia và Ai Cập, một liên minh của
những người Islamist và những người nổi dậy không theo đạo đã có những thắng lợi
nổi bật ở Libya. Nhưng nay khi cuộc chiến đã hầu như chấm dứt, thì những khác
biệt sâu sắc giữa hai nhóm này đang trở nên ngày càng rõ.
Như ở Tunisia
và Ai Cập, chẳng bao lâu sẽ rõ nước Libya mới có thể dân chủ đến đâu. Liệu nó sẽ
phát triển theo mô hình Thổ Nhĩ Kỳ, mà thủ tướng Thổ Recep Tayyip Erdogan gần đây đã cổ võ trong một chuyến đi nổi tiếng qua
thế giới A Rập hay không? Hay là, trên một đầu khác của phổ này, nó sẽ theo
gương nền chính trị thần quyền của Iran?
Các nền độc tài
cũ đã thuận tiện đối với phương Tây, bởi vì chúng giữ những người Islamist
trong vòng kiểm soát. Nhưng bây giờ khi nhân dân đã tự giải phóng cho mình, nền
tự do của họ áp dụng cho tất cả mọi người, kể cả Islamist lẫn thánh chiến Hồi
giáo, muốn thấy luật Sharia được áp dụng trong mỗi nước của họ. Họ đang đòi phần
của họ trong chính quyền, mà phần đó không thể là nhỏ.
Các lữ đoàn
Islamist chiến đấu tốt ở Libya. Trong thực tế, ngay cả nhiều thập kỷ trước các
cuộc cách mạng ở Bắc Phi, họ là phe đối lập được tổ chức tốt nhất trong ba nước
đó. Các lãnh tụ của họ bị giam cầm, bị tra tấn và bị giết. Những người Islamist
đã trả giá đắt, điều đó làm cho những người ủng hộ họ thêm mạnh bạo. Họ cũng có
nguồn tài chính lớn hơn các nhóm đối lập khác, một phần nhờ sự ủng hộ của các
tù trưởng Hồi giáo vùng vịnh, như lãnh tụ Qatar.
Trong vòng bốn
tuần nữa sẽ tổ chức bầu cử một ủy ban hiến pháp ở Tunisia, và các cuộc điều tra
dư luận cho thấy đảng tôn giáo Nahda có thể chiếm tới 20-30 phần trăm số phiếu.
Điều này có thể cho những người Islamist nhiều quyền lực hơn bất kỳ một đảng thế
tục nào.
Tiềm năng lớn
Điều này không
có gì ngạc nhiên vì những người Islamist có bộ máy vận động bầu cử lớn nhất, họ
tài trợ cho việc nghiên cứu và các dự án xã hội, họ có mặt ở khắp nơi và truyền
bá lòng mộ đạo. Phụ nữ đã than phiền về việc bị tấn công ở nơi công cộng giữa
ban ngày. Khi một bộ phim phê phán tôn giáo được chiếu ở Tunis, những người
Islamist ào ra dữ dội khỏi rạp và tấn công hành hung những người chủ rạp.
Những người quan
sát ở Ai Cập tin rằng những người Islamist ở đó – Huynh đệ Hồi giáo và Salafist
– giữ một tiềm lực giữa các cử tri. Huynh đệ Hồi giáo bây giờ tự gọi nó là đảng
Tự do và Công lý, đã muốn thiết lập những qui tắc khắc nghiệt đối với những người
phụ nữ nước ngoài mặc bikini trên các bãi biển Ai Cập. Các thành viên của giáo
phái Salafist đã thành lập một số đảng khác.
Khi hai nhóm
này tổ chức một cuộc tập hợp chung trên Quảng trường Tahrir ở Cairo, mười nghìn
người đã có mặt để biểu tình ủng hộ một nhà nước Hồi giáo. Một số người trách cứ
những người Salafist về số vụ tấn công
hung bạo vào các nhà thờ Cơ đốc Coptic gần đây đang tăng lên ở Ai Cập.
Tình hình ở
Libya hỗn loạn hơn nhiều so với hai nước láng giềng, một phần là vì những người
nổi loạn vẫn còn đánh nhau với những kẻ trung thành với Gadhafi còn sót lại.
Tuy nhiên, Hội đồng Chuyển đổi Quốc gia, do Mustafa Abdul Jalil cầm đầu, và cái
gọi là Ủy ban Thường vụ, dưới quyền chủ tịch của Mahmoud Jibril, đã trình bày lộ
trình đến dân chủ kêu gọi cuộc bầu cử một quốc hội 200 thành viên trong khoảng
tám tháng nữa. Trong khoảng một năm, quốc hội sẽ thảo ra một hiến pháp, tổ chức
một cuộc trưng cầu ý dân về hiến pháp và cuối cùng sẽ tổ chức những cuộc bầu cử
tự do.
Lãnh đạo quân đội
Belhaj đã cảm thấy đủ mạnh để chống lại Jibril, người đang làm thủ tướng de factor (thực tế, không do bầu cử). Thật
ra Belhaj đang cố đẩy Jibrrl ra khỏi cương vị của ông này.
Những cáo buộc tham nhũng
Nhưng hai người Islamist có ảnh hưởng nhất ở
Libya có lẽ là anh em Salabi. Ismail Salabi chỉ huy một trong những lữ đoàn
quân nổi dậy kiên cường nhất ở Benghazi. Em ông ta, Ali, được coi là một trong
những lãnh tụ tôn giáo của đất nước, qua lại giữa Libya và Qatar, nước A Rập
vùng Vịnh Persic đã cung cấp vũ khí cho quân nổi dậy và huấn luyện binh lính của
nó.
Anh em Salabi
đã nhiều lần cố làm mất uy tín của Hội đồng Chuyển đổi Quốc gia bằng những cáo
buộc tham nhũng. Ali tuyên bố hội đồng này đầy những "kẻ thế tục quá
khích" những người đang cố loại bỏ các nhóm tôn giáo trước các cuộc bầu cử,
và rằng Jibril muốn dẫn đến một "thời đại mới của bạo ngược và chuyên
chính."
Những người
Islamist bây giờ đang có kế hoạch thành lập một đảng tôn giáo. Tuy nhiên, nếu họ
không thắng trong cuộc bầu cử, họ sẽ vẫn tôn trọng ý chí của nhân dân, Ali
Salabi nói. Salabi khăng khăng nói rằng ông ta tin vào nền dân chủ.
Nhưng nhiều người
không tin những kẻ quá khích như anh em Salabi, đặc biệt từ sau vụ giết Andul
Fattah Younis. Là cựu bộ trưởng nội vụ của Gadhafi, Younis tham gia quân nổi dậy
ít ngày sau khi các cuộc nổi dậy bắt đầu, và, với tư cách tổng tư lệnh của họ,
ông đã phát triển quân đội. Đạo quân của ông là một trong ba đạo quân có mặt ở
gần Benghazi vào ngày 28 tháng Bẩy. Cho đến nay vẫn chưa rõ ai đã bắn Younis và
hai người đồng hành với ông rồi sau đó chôn các thi thể, mặc dù nghi ngờ chĩa
vào những người Islamist.
Fathi Bin Issa,
tổng biên tập của tờ báo Tripoli Arus al-Bahr, đang ngồi trong văn phòng dài, hẹp
của ông, một căn phòng tràn ngập ánh sáng đèn huỳnh quanh lạnh. Lá cờ đỏ, đen
và xanh lục của nước Libya mới treo gần bàn làm việc của ông. Bin Issa là người
phát ngôn của quân nổi dậy ít lâu sau khi họ chiếm được thủ đô, và các biên tập
viên của ông bây giờ viết đều đặn những bài đặc biệt về những người Islamist.
Ông nói chỉ mới tuần trước thôi, ông đã nhận nhiều cú điện thoại dọa giết, những
người gọi đến đe cho nổ tung văn phòng của ông.
Phần 2: Những mối quan hệ tốt và một chương trình nghị sự
"Ở đây có
những người đang cố gắng xây dựng một Hazbollah của Libya," bin Issa nói.
"Có một nguy cơ lớn là họ sẽ chiếm chính quyền." Các nhà báo nói, ở một
số khu những sắc lệnh tôn giáo, gọi là fatwas, đã ban hành cấm phụ nữ đi ra nơi
công cộng một mình. Ông cũng nói rằng một số salon thẩm mỹ đã bị đóng cửa, và
những thành viên của một cảnh sát tôn giáo đã bắt đầu xuất hiện trên các đường
phố. "Những người này có những mối quan hệ [ô dù] tốt, và họ có một chương
trình hành động. Đó là điều khiến họ nguy hiểm đến thế." Theo ý kiến của
Bin Issa, mội việc hiện nay phụ thuộc vào xã hội dân sự phản ứng với những thay
đổi như thế nào. "Nếu chúng tôi không có khả năng đẩy những người này ra
xa, chúng tôi có thể thấy tình trạng như ở Iran hay dưới thời Taliban,"
Issa nói.
Đại tá Al Ahmed
Barathi, 53 tuổi, là chỉ huy mới của quân cảnh ở Tripoli. Đại bản doanh của ông
ta đã từng là nơi đóng quân của lữ đoàn 32 khét tiếng, đó là bọn tra tấn và dẫn
đầu bởi Khamis con trai Gadhafi. Các trại lính thì ở ngoại ô Tripoli, nơi đại
tá Barathi đang ngồi trong văn phòng của ông ta bên một chiếc bàn lớn. Ông ta
đang đeo một cặp kính râm và có đôi bàn tay thô ráp của người lính chuyên nghiệp,
thế nhưng Barathi là người ăn nói mềm mỏng.
Viên sĩ quan
này vốn quê ở Benghazi, ở đó nơi ông tham gia quân nổi dậy ngay lập tức.
"Tôi đứng trước đơn vị của tôi và nói rằng tôi có ý định chạy sang phía
bên kia. Tôi để cho mỗi binh lính tự quyết định có theo chúng tôi hay không.
Toàn bộ đơn vị bỏ ngũ theo tôi."
Cuộc chạm trán nhỏ với những người Islamist
Barathi không
lo ngại về các hoạt động của những người Islamist. "Người Libya không muốn
bị những người ấy cai trị. Ngay cả Belhaj cũng đã nhận ra điều này và dè dặt
trong những phát biểu của ông ta."
Nhưng sau đó
ông nói về những cuộc chạm trán nhỏ với những người Islamist và nói rằng người
của ông đã đánh tan cả một đơn vị những người Islamist hồi đầu cuộc nổi loạn.
"Những người Islamist đã bị các bộ lạc cô lập, những bộ lạc này không hề
muốn họ. Sau khi chúng tôi ra tối hậu thư cho họ hoặc là chiến đấu bên cạnh
chúng tôi hoặc hạ vũ khí, nhiều người giao lại vũ khí trong khi những người
khác bỏ ngũ"
Sự bất đồng giữa
những người Islamist và người dân Libya thế
tục thậm chí có thể có kết quả tích cực – chủ nghĩa đa nguyên đích thực
– Aref Nayed nói, ông là điều phối viên của cái gọi là đội ổn định của chính phủ
nổi dậy. Là một nhà doanh nghiệp giàu có của công nghệ tin học, học giả Hồi
giáo và nhà triết học, Nayed thường có mặt ở tiền sảnh của khách sạn Corinthia
ven Tripoli cùng với nhiều lãnh đạo chính trị của nước này.
Một con người bặt
thiệp với bộ ria xén tỉa gọn ghẽ, Nayed đã từng du học ở Canada và Hoa Kỳ và đã
làm việc ở Italy. Ông là người lão luyện trong việc vận động giữa các mặt trận
đối nghịch.
"Đưa xã hội vào khuôn khổ"
Sau khi Giáo
hoàng kích động những người Hồi giáo chống lại Nhà thờ Công giáo bằng một bài
diễn văn vụng về năm 2006, Nayed là một trong số 138 học giả Hồi giáo ký một bức
thư khởi động những cuộc đàm phán hòa giải. Khi Nayed tham gia vào Hội đồng
Chuyển đổi Quốc gia, Vatican tuyên bố nó vui mừng thấy một người "bạn
cũ" đã trở thành một nhân vật quan trọng ở Libya.
Nayed mơ về một
cuộc thỏa hiệp giữa những người Libya thế tục và Islamist, một cuộc dàn xếp có
thể trở thành một kiểu mẫu cho thế giới A Rập, trong đó những người Islamist có
thể được nhìn nhận như một lực lượng chính trị, ngay cả trong khi phụ nữ có thể
giữ những cương vị trong chính phủ. Nayed nói trong tất cả những chuyện này
không có điều gì mâu thuẫn với những giáo lý của đạo Hồi. Người đứng đầu hội đồng
là Abdul Jalil, một tín đồ Hồi giáo rất mộ đạo, cũng ủng hộ một sự thỏa hiệp.
Abdul Jalil hình dung một nền dân chủ Hồi giáo ôn hòa với một hệ thống pháp luật
dựa trên Sharia. Ngoài ra, Nayed nói, không phải các lãnh tụ chính trị mà chính
các bộ lạc đang giữ cho xã hội vào kỷ cương nền nếp"
Trong khi ông
đang say sưa trích dẫn những triết gia cổ, một khẩu súng rơi tuột ra khỏi chiếc
áo choàng đắt tiền. Chiếc thắt lưng hẹp bản của ông không đủ chắc để giữ khẩu
súng 9 ly nặng nề. "Tôi chẳng biết cách sử dụng nó," Nayed thì thầm.
Ông nói rằng vệ sĩ của ông năn nỉ ông
đeo súng, để ông không bị rơi vào tình trạng không được bảo vệ khi ra trước
công chúng.
Một bức ảnh lớn
của viên tướng bị giết Younis treo trên Quảng trường Nghĩa sĩ – trước khi những
người nổi dậy đến được gọi là Quảng trường Xanh - ở trung tâm thương mại
Tripoli. Viên tướng khởi nghĩa biết cách sử dụng súng, nhưng điều đó đã không
ích lợi gì cho ông cả.
Christopher Sultan
dịch từ tiếng Đức
Bản tiếng Việt ©
2011 :Hiếu Tân
5. Không giờ ở Trung Đông:
Quá khứ của Thế giới A Rập nói gì với chúng ta về Tương lai của nó?
Thế giới đang lo sợ và hồi hộp nhìn các dân tộc A Rập đi qua những chuyển biến chính trị của thế kỷ. Nhưng tương lai của vùng này có thể đánh dấu bằng hòa bình dân chủ haynội chiến? Bốn cuộc nổi dậy vừa qua mang nhiều bài học cho những gì sắp đến.
"The riches, power, and honour of a monarch arise only
from the riches, strength, and reputation of his subjects. For no king can be
rich, nor glorious, nor secure, whose subjects are either poor or
contemptible."
“Một ông vua chỉ có thể
giàu có, vinh quang và hùng mạnh nếu thần dân của ông sung túc, mạnh mẽ và được
coi trọng. Không ông vua nào có thể giàu có, hay vinh hiển, hay an toàn, nếu thần
dân của ông ta nghèo hèn hoặc đáng khinh”
THOMAS
HOBBES, "LEVIATHAN"
Phần I
Ở Trung Đông khó thấy nơi
nào thanh bình hơn thành phố cảng Sohar ở Oman nơi hoa dâm bụt nở đỏ quanh năm,
và dân cư thoải mái bên bàn trà điếu thuốc. Tất cả điều này là đúng cho đến Chủ
nhật 27 tháng Hai, khi 2000 người tiến hành một cuộc biểu tình ở một bùng binh
lớn. Cảnh sát nổ súng giết chết ít nhất một người biểu tình. Anh và các bạn biểu
tình đòi tăng lương và phản đồi tham nhũng tăng vọt trong chính phủ của Quóc
vương (Sultan) Qaboos bin Said, 70 tuổi.
Trước ngày Thứ Năm 24
tháng Hai, Qatif, một thành phố ốc đảo thuộc tỉnh miền Đông A Rập Saudi được biết
đến chủ yếu vì những cây cọ, cát và dầu - mỏ dầu lớn nhất tứ trước đến nay được
phát hiện cách đây 60 năm. Nhưng ngày hôm đó một nhóm người Shiite đã chiếm các
đường phố để đòi thả ba người đồng bào của họ. Vua Abdullah bin Abd al-Aziz, 86
tuổi, chưa bao giờ gặp một chuyện gì như thế trong vương quốc của ông.
Benghazi ở Cyrenaica, một
vùng xanh tươi, xa xôi ở miền đông Libya, cách thủ đô Tripoli khoảng 1000 cây số
đường ven biển. Đại tá Moammar Gadhafi đã cai trị vùng này 41 năm. Cho đến cách
đây hai tuần, tức là, khi nhiều người lái xe qua thành phố, ăn mặc giống
Gadhafi, như trong một cuộc diễu hành ngày hội hóa trang, hô vang “Libya tự do”
và “Chúa vĩ đại”
Đến hôm nay dường như sự
thống trị của nhà độc tài Trung Đông này, ít nhất, sẽ kết thúc trong năm 2011.
Cựu Thứ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Paul Wolfowitz gọi Gadhafi “người chết bước
đi” và Kremlin thì nói về một “xác chết chính trị bước đi.”
Hoàn toàn không thể đoán trước
Tuy nhiên những dự đoán của
họ vẫn tỏ ra vội vã. Nếu những sự biến của mấy tuần qua, từ Tunisia đến Cairo,
từ Bahrain đến Benghazi đã chứng minh một điều, thì đó là các sự kiện chính trị
là hoàn toàn không thể đoán trước. Không ai có thể biết trước rằng sự hy sinh
thân mình của Mohammed Bouazizi người thất nghiệp bán hoa quả rong ở một thành
phố nhỏ của Tunisia lại có thể dẫn đến việc lật đổ một kẻ thống trị mạnh nhất
Trung Đông ở Cairo chỉ mấy tuần sau đó.
Nhưng chuyện gì sẽ diễn
ra tiếp theo, sau sự ra đi của Tổng thống Ai Cập Hosni Mubarack? Và điều gì sẽ
đến sau sự sụp đổ có thể của Gadhafi? Liệu Libya sẽ biến thành một “Somalia khổng
lồ” như Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đã cảnh báo? Liệu nước sản xuất dầu
mỏ lớn nhất A Rập Saudi có rơi vào hỗn loạn? Các nền tự do mới sẽ đưa thế giới
A Rập đến đâu?
Trung Đông đã chi phối chính trị toàn cầu
trong nhiều thập kỷ, đến một mức độ hoàn toàn không cân xứng với kích cỡ địa lý
và dân số của nó. Các báo cáo về chiến tranh, bạo lực và khủng bố giữa bắc Phi
và các nước vùng Vịnh đã trở thành tạp âm trong cuộc sống của cả một thế hệ.
Chỉ tính riêng từ 1945,
vùng này đã trải qua hàng chục cuộc chiến tranh quốc tế, nhiều cuộc nội chiến
và đảo chính, và hàng ngàn cuộc tấn công khủng bố và ám sát chính trị . Nếu những
cuộc xung đột này xảy ra ở một nơi nào khác trên thế giới, phương Tây chắc đã
không làm gì hơn là bình thản nói rằng nó rất lấy làm tiếc.
Nhưng những cuộc xung đột
Trung Đông xảy ra trong một khu vực nằm
trên gần 60 phần trăm trữ lượng dầu mỏ và 40 khí tự nhiên của thế giới. Nền an
ninh của Israel là nhân tố quan trọng trong chính sách ngoại giao của những nước
như Mỹ và Đức, và hàu hết các nước trong cộng đồng quốc tế thống nhất với nhau
trong nỗi lo ngại về khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh về chương trình hạt
nhân của Iran. Khi Trung Đông bùng nổ, phương Tây không thể đơn giản biểu lộ lấy
làm tiếc và ngó qua hướng khác.
Trở về Năm Số không
Tám tuần trước khi bắt đầu
làn sóng bạo loạn gần đây ở Bắc Phi, các quyển lịch đã được đặt lại về năm Zero
trong khu vực này, có có tầm quan trọng trung tâm đối với hòa bình thế giới và
kinh tế toàn cầu. Khu vực láng giềng của châu Âu này đang bên bờ một khởi đầu mới.
Cho đến nay, phương Tây đã đạt được những hiệp định với hầu hết các lãnh đạo A
Rập, chủ yếu nhằm bảo đảm ổn định và bảo vệ thị trường dầu. Phải chăng những hiệp
định ấy bây giờ đã mất hiệu lực?
Không ai có thể nhìn về
tương lai. Nhưng có lẽ một cái nhìn về quá khứ, vào những ghi chép 100 năm của
Trung Đông hiện đại, có thể cho chúng ta những kết luận về phần này của thế giới,
và phương Tây, bây giờ có thể đối diện với chuyện gì. Cuộc thẩm tra này bắt đầu
từ vùng đất đầu tiên nơi mà những người nổi loạn dã tự giải phóng họ ra khỏi sự
kiểm soát của Gadhafi, tức là vùng Cyrenaica.
Cách đây một trăm năm,
vào mùa thu năm 1911, một viên thiếu tá quân đội Ottoman đến cửa ngõ Benghazi.
Như ông viết cho một người bạn, ông từ Istanbul đến để giành lại “những vùng đất
biên cương nồng ấm và hữu hảo của tổ quốc.”
Trong hơn 400 năm,
Ottoman đã kiểm soát Bắc Phi, Syria và Palestine, Mesopotamia cho đến tận vịnh
Ba Tư, từ Hồng Hải đến Aden, và từ Sông Nile đến biên giới Sudan. Nhưng người
Pháp chiếm Algeria và Tunisia, và 1882 Ai Cập rơi vào tay người Anh. Lúc này
người Ý đã đỏ bộ lên Libya. Giống như người Pháp và người Anh, họ cũng tìm cách
thiết lập các thuộc địa ở châu Phi. Vào thời ấy, còn mục tiêu nào dễ dàng hơn
là một tỉnh của đế quốc Ottoman yếu ớt, người ốm trên eo biển Bosporus?
Kết liễu một đế quốc
Thiếu tá Mustafa Kemal với
150 sĩ quan Thổ Nhĩ Kỳ và 8.000 lính A Rập, đã chống đỡ được với quân thù
trong nhiều tháng và chặn giữ một đạo
quân 15.000 lính Ý không cho xâm nhập qua bờ biển Libya. Nhưng ông sóm nhận ra
rằng đây là một trận đánh ông không thể nào thắng được. Các vùng biên giới của
đế quốc đã từ từ vỡ vụn ra, không chỉ ở châu Phi, mà cả ở Balkan, dọc sông
Danube và trong vùng Caucasus. Tripolitania là một nguyên nhân thất bại. Nó là
“vô dụng” ngay cả với cố gắng đánh lại người Ý, ông viết trước khi rở về
Istanbul.
Thiếu tá Keman cảm thấy rằng
việc mất tỉnh cuối cùng ở châu Phi của Istanbul không chỉ đánh dấu bắt đầu sự kết
thúc một đế quốc, mà còn là kết thúc một thời đại. Ông cảm thấy có một cái gì
đó mới mẻ hiện ra ở chân trời, một cái gì đó ông có thể đóng vai trò then chốt
trong đó. Nhưng ông vẫn khôg biết cái mới ấy là cái gì.
Ngày nay chúng ta biết nó
là cái gì, tức là, một thế kỷ trong đó toàn thể Trung Đông biến thành một chiến
trường cho các lực lượng chính trị, tư tưởng, và tôn giáo, một ngôi nhà kính của
chính trị toàn cầu. Trong 100 năm ấy, các nước được thành lập đã không hoạt động.
Các đờng biên giới được vạch ra một cách tùy tiện, những kẻ thống trị được dựng
lên căm ghét nhân dân của chúng như nhân dân căm ghét chúng. Các cuộc chiến
tranh và nội chiến nổ ra, những kẻ độc tài bị giết. Chỉ có hai nước trong vùng
tìm được con đường đến dân chủ, đó là Israel, thành lập 1948, và đất nước mà
Thiếu ta Kemal, người sau này được biết đến dưới tên Atatürk, đã xây dựng nên:
Thổ Nhĩ Kỳ.
Và trong khi các nước
khác và các khu vực khác đã đi vào thời hiện đại giữa những hoàn cảnh thảm họa
như nhau, giống như châu Âu chẳng hạn, đã vượt qua được những hận thù của mình
trong mấy thập kỷ tiếp theo, hì Nam Mỹ
đã đạt được đôi chút ổn định và Trung Hoa đã dần dần vượt được các nước phương
Tây về sản xuất, thì phần lớn các nước Trung Đông và Bắc Phi vẫn còn đông cứng
trong chế độ chuyên quyền, bế tắc và vô vọng. Ngay cả việc phát hiện ra trữ lượng
dầu mỏ chứng tỏ nó là khu vực sản xuất dầu lớn nhất thế giới cũng không thể làm
thay đổi được hiện trạng này. Ngược lại, sự phân phối không công bằng nguồn của
cải dầu mỏ chỉ làm sâu thêm các mâu thuẫn, và trong nhiều trường hợp cái phúc
có dầu lại thành ra cái họa.
Những ma quỷ vùng Trung Đông
Gần hết 100 năm bắt đầu từ
chuyến đi của Thiếu tá Kemal đến Libya, những con quỷ vùng Trung Đông bỗng
nhiên hiện ra trên khắp thế giới. Al-Qaida bước lên sân khấu địa cầu, một tổ chức
khủng bố đến từ giữa lòng thế giới A Rập mà có khả năng hoạt động với tầm với
chưa từng thấy ra toàn thế giới. Vào ngày 11 tháng Chín năm 2001, cuối cùng đã
rõ rằng Trung Đông đã sinh ra một con quái vật.
Nhưng chủ nghĩa khủng bố
của al-Qaida không phải là tiếng nói cuối cùng của Trung Đông, ngày 11 tháng
Chín cũng không phải là kết thúc của lịch sử. Mười năm sau những vụ tấn công ở
New York và Wáhington, một cuộc nổi dậy đã bóp nghẹt thế giới A Rập mà không ai
thấy nó đến. Nó bắt đầu ở Tunisia và lan sang Ai Cập, Bahrain, Yemen và Jordan.
Như thể được giải thoát khỏi m ột nhà tù băng giá của nỗi sợ hãi, nhân dân ngày
nay đang đứng lên chống lại những kẻ thống trị, những con người mà phương Tây
coi như nếu không là thành viên các nhóm tôn giáo cuồng tín thì cũng là những
đám đông thờ ơ chấp nhận số phận của mình.
Bây giờ những con người ấy
đang xuống đường, không có dấu vết gì của tính thờ ơ hay sự cuồng tín tôn giáo,
từ Morocco đến Sultanate có vẻ thanh
bình của Oman, từ A Rập Saudi giầu có đến Iraq, mà Mỹ coi là đã giải phóng cách
đấy tám năm, để đòi hỏi những gì họ có quyền đòi hỏi: công bằng, dự phần vào
quyền lực nhà nước, thịnh vượng và tự do.
Thế giới A Rập, cái thế
giới dường như đã tự nhốt mình trong căn phòng hoảng sợ của lịch sử thế giới
khi nó liên tục chịu đựng mọi tai ách của cái hiện đại. cuối cùng đã giành lại
được tiếng nói của mình.
Và phương Tây, thay vì
hoan hỉ reo mừng về những gì nó dã đòi hỏi trong nhiều năm, thì nay đang đứng
bên lề há hốc mồm kinh ngạc, sửng sốt, không nói nên lời vì kinh hãi.
Có thể nào trách cứ nó
không? Các nước A Rập có thể làm gì nhiều hơn là lật đổ các chính phủ không? Họ
có khả năng tiến tới dân chủ không? Những gì đang diễn ra ở Libya có biện hộ nổi
cho những kẻ luôn mồm cảnh báo kể từ khi cuộc cách mạng này bắt đầu không?
Hàng trăm người, có lẽ
hàng ngàn, đã chết giữa Benghazi và Tripoli trong hai tuần qua. Sự sụp đổ có thể
xảy ra của chế độ Gadhafi minh họa cho sự sụp đổ của các chế độ chuyên chế A Rập
và những đau thương mà chúng bắt nhân dân của chúng phải chịu. Di sản của chúng
là di sản thất bại.
Giáo dục tồi và sản xuất kém
Một vài khu vực khác mà
Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc (UNDP) xem xét trong báo cáo thường niên
của nó về Phát triển Con người, về nhiều phương diện cũng tồi tệ không kém thế
giới A Rập. Hệ thống giáo dục khốn khổ và nạn mù chữ cực kỳ cao trong hầu hết
các nước thuộc Liên minh A Rập. Ở Mauritania, Morocco và Yemen, gần một nửa số
người trưởng thành trong dân cư không biết đọc biết viết, trong khi tỉ lệ mù chữ
ở mối nước Ai Cập, Algeria và Sudan tương ứng là 28, 30 và 38%. Mới cách đây mấy
năm, ngay cả Phi châu Hạ Sahara còn có nhiều kết nối Internet hơn thế giới A Rập.
Ít có nơi nào sản xuất
kém phát triển như nơi này. Tổng cộng tất cả các nước A Rập, với số dân 350 triệu,
về kinh tế sản xuất ra ít hơn 60 triệu dân Italy. Chỉ có 3 phầ trăm dân số
Libya làm việc trong khu vực dầu mỏ, là nới cho đến gần đây, chiếm tới hơn 60
phần trăm GDP của nước này. Vậy thật ra số dân còn lại làm gì? Tỉ lệ thanh niên
thất nghiệp chính thức trong một nước sản xuất dầu mỏ giầu có như A Rập Saudi
là 26%, trong khi con số tỉ lệ không chính thức trong khu vực Maghreb Bắc Phi
lên tới 70%. Một phần ba nhân dân Mauritania
và Yemen, và một phần năm dân Ai Cập sống với dưới 2$ một ngày.
Thế giới A Rập không
nghèo! Nhưng không có khu vực nào trên thế giới đối xử với các nguồn tài nguyên
của mình – và với một nửa lực lượng lao động của minh, tức là phụ nữ - một cách
cẩu thả như thế. Trong một vùng trải dài từ Morocco đến Bahrain chỉ có 5 phần
trăm đại biểu quốc hội là phụ nữ. Và trong khi ở Hàn Quốc trong những năm từ
1980 đến 1999 có hơn 16.000 đơn xin cấp bằng sáng chế quốc tế, thì ở Ai Cập
trong cùng thời gian đó chỉ có 77 đơn đăng ký.
Không có nước A Rập nào,
ngoại trừ Lebanon có nền dân chủ vừa phải, là có dấu hiệu một xã hội công dân
đang hình thành. Không nước nào có một truyền thống dân chủ có thể cung cấp một
cơ sở cho những ai có kế hoạch điều hành đất nước sau các cuộc cách mạng trong
những tuần gần đây, chưa nói đến những cuộc cách mạng sẽ còn tiếp tục đến.
“Xin thắt dây an toàn”
nhà bình luận và cựu phóng viên Trung Đông của New York Time, Thomas Friedman,
gần đây đã cảnh báo. Chuyến đi mà thế giới A Rập hiện giờ đang chuẩn bị khởi
hành sẽ “không phải là một chuyến đi vui vẻ,” Friedman viết, mà là “trên một
con đường dài và lởm chởm đá.”
Thân thể chính trị của
Trung Đông đang ốm yếu theo nhiều cách và chưa bao giờ được hoạt động dưới những
điều kiện dân chủ. Nó có khả năng làm thế không? Và nếu có, thì Thế giới và
phương Tây làm gì để xúc tiến quá trình này.
Dùng một ẩn dụ trong ý học:
bệnh án củ Trung Đông chứa bốn bệnh lây nhiễm trầm trọng. Ba bệnh trong số đó từ
ngoài đưa vào, còn một bệnh thì chắc chắn là nội sinh. Căn bệnh đầu tiên đến với
cái tên đã nhàm ở phương Tây nhưng vẫn còn rất sống động trong thế giới A Rập
ngày nay: chủ nghĩa đế quốc.
Phần 2: Rũ bỏ cái ách Ottoman
Đầu năm 1915, khi đã rõ rằng
đế quốc Ottoman không thể sống sót qua khỏi Thế Chiến I, các chính trị gia ở
London và Paris đi đến một ý tưởng là phân chia phần còn lại của cái đế quốc ấy.
Người Anh và người Pháp có kế hoạch nhằm vào các tỉnh A Rập của Đế quốc
Ottoman. Kế hoạch ấy trùng khớp với ước muốn của các lãnh tụ bộ lạc có ảnh hưởng
và các yếu nhân muốn rũ bỏ cái ách Ottoman.
Tháng Bảy năm 1915, Cao ủy
Anh ở Ai Cập bắt đầu trao đổi thư từ với Hussein Bin Ali, sharif[1] của
thánh địa Mecca. Ngày 24 tháng Mười, ông nhất trí rằng Liên Hiệp Anh đã chuẩn bị
“công nhận độc lập cho các nước A Rập trong các khu vực nằm trong các đường
biên giới mà sharif đã đề nghị”
Tháng Sáu năm 1916, cuộc
nổi dậy lớn chống lại Ottoman bắt đầu. Các cuộc nổi dậy này đầy hứng khởi về mặt
quân sự và được làm thành bất hủ dưới hình thức thơ ca bởi nhà khảo cổ kiêm
nhân viên mật vụ Anh T.E. Lawrence, nổi tiếng dưới cái tên Lawrence của Arabia,
trong cuốn sách của ông “Bảy Cột trụ của sự Khôn ngoan.”
Lawrence viết trong hồi
ký tình báo của ông hồi tháng Giêng năm 1916 rằng: cuộc nổi loạn ấy là “có lợi
cho chúng ta, vì nó phù hợp với mục tiêu trước mắt của chúng ta là phá vỡ khối
Islamic và đánh bại và chia xẻ Đế quốc Ottoman, và bởi vì các nhà nước (Sharif
Hussein) sẽ thành lập để kế tục người Thổ.. sẽ là vô hại đối với chúng ta...Người
A Rập thậm chí còn kém ổn định hơn người Thổ. Nếu được xử lý tốt họ có thể giữ
nguyên trong tình trạng chính trị nhiều mầu sắc, một loạt những tiểu vương đầy
đố kỵ không thể liên kết với nhau về chính trị.”
Những tài liệu thành lập nhà nước
Tuy nhiên trong cùng thời
gian đó, không báo cho những người A Rập đang được cổ võ nổi dậy, người Anh
thương lượng về tương lai của các tỉnh A Rập thuộc Ottoman trên hai mặt trận
khác. Theo một hiệp định bí mật mà nhà ngoại giao Anh Mark Sykes thương lượng với
đối tác người Pháp là François Georges-Picot, London và Paris đã phân chia chiến
lợi phẩm mà họ đang mong đợi theo cách là các vùng xung quanh Beirut, Damascus
và Mosul sẽ thuộc về Pháp, trong khi Anh sẽ kiểm soát vùng bờ biển Vịnh A Rập,
Palestin và các tỉnh Baghdad và Basra. Trong một tài liệu khác, được ký bởi Bộ
trưởng Ngoại giao Anh Arthur James Balfour, chính phủ Anh bảo đảm cho Liên đoàn
Zionist “thành lập ở Palestin một tổ quốc cho những người Do Thái”
Hiệp định Sykes – Picot
và Tuyên bố Balfour, ký lần lượt năm 1916 và 1917, là hai tài liệu thành lập của
Trung Đông hiện đại. Chúng làm thành cơ sở của năm nhà nước - Syria, Iraq,
Lebanon, Jordan và Israel – và Palestin vĩnh viễn không-nhà nước. Sự tồn tại của
những gì vẫn còn là nguồn gốc của chia rẽ và bất ổn cho đến ngày nay. Người A Rập,
dù chưa phát hiện ra lời lẽ thật sự của các tài liệu này cho đến sau Thế Chiến
I, đến nay vẫn coi chúng là những tài liệu phản bội họ. Dưới mắt của nhiều người
A Rập, các đường biên giới mà chúng vạch ra, và những triều đại mà Anh và Pháp
dựng lên bên trong những đường biên giới đó, luôn luôn thiếu tính hợp pháp.
Tuy nhiên, sự can thiệp của
phương Tây trong việc tạo ra Trung Đông hiện đại đã làm thành một khuôn mẫu nhận
thức đã trở nên ám ảnh, thậm chí ám ảnh hơn cả các vùng khác có quá khứ thuộc địa
của đế quốc: cái tàn hại của âm mưu.
Đối với nhiều người A Rập,
sự kiện phần lớn các nước A Rập như T.E. Lawrence đã tiên đoán, vẫn còn là những tiểu vương nhỏ
nhen đầy lòng đố kỵ không phải là kết quả của sự yếu kém của chính họ, mà là của
sự độc đoán của người Anh và người Pháp. Họ trách phương Tây đã tạo ra những
nhà nước nhân tạo, những nước như Lebanon và Iraq bị chia rẽ về chủng tộc và
tôn giáo và về thực chất vẫn còn là không thể cai quản được cho đến ngày nay,
và về sự kiện là triều đại Hashemite do người Anh dựng lên ở Syria và sau đó là
Iraq, và đến nay chỉ còn sống sót ở Jordan.
Thiếu lôi cuốn /.dấn thân
Kết cục của thời đại này,
nhìn từ tầm nhìn của hôm nay là những khiếm khuyết của Trung Đông do chủ nghĩa đế quốc đẻ ra dường như đã được khắc phục. Cho đến nay,
không có người nổi loạn nào hay người phản đối nào đã nghĩ đến việc đổ lỗi cho
phương Tây về cuộc nổi dậy năm 2011, như tổng thống Yemen Ali Abdullah Saleh đã
làm, hoặc đổ tội cho al-Qaida, như Gadhafi đã làm. Những cuộc cách mạng này thuộc
về những người A Rập, và phương Tây đã làm đúng khi tôn trọng sự kiện đó, bất kể
liệu sự thiếu lôi cuốn của nó là cố ý hay đơn giản vì nó chưa được chuẩn bị kỹ
cho cơ hội lịch sử này. Người A Rập đã giành lại được một mẩu tự tin mà họ đã
đánh mất do kết quả của áp bức.
Phải chăng điều đó có
nghĩa là Hoa Kỳ và Châu Âu không nên làm gì cả và chỉ ngồi chờ xem sắp tới lịch
sử sẽ nhỏ giọt thêm cơ hội nào nữa? Họ nên, chẳng hạn, suy nghĩ lại về mối quan
hệ của họ với Thổ Nhĩ Kỳ, một đất nước đã tự mình tìm được đường đi đến dân chủ
và trở thành một kiểu mẫu cho nhiều cư dân trong khu vực này. Việc thiết lập những
liên hệ chặt chẽ hơn với nước này sẽ là hữu ích cho châu Âu, cho dù có những
khó khăn mà việc đó kéo theo.
Nhưng trên hết,
Washington, London, Paris và Berlin cần có một lựa chọn chính trị, thậm chí là
một bổn phận, là điều rõ ràng đến nỗi không ai còn chú ý đến nó nữa.
Cơ hội có một không hai
Chưa bao giờ từng có một
thời gian nào thuận lợi hơn để kiến tạo hòa bình ở Palestin. Israel, bất ngờ bởi
cuộc cách mạng ở Ai Cập và quan tâm một cách chính đáng đến an ninh của nó,
không có lựa chọn nào khác ngoài việc công nhận giải pháp hai nhà nước nếu nó
hy vọng vẫn giữ nguyên là một đất nước vừa Do Thái vừa dân chủ.
Còn về lãnh đạo Palestin,
cũng lạc hậu và xa rời nhân dân như kẻ bảo
trợ của họ vừa bị lật đổ Mubarak? Bây giờ họ có nhiệm vụ gì, nếu không phải là
thành lập một nước mà mọi người đã biết trong nhiều thập kỷ, sẽ hình thành như
kết cục thắng lợi của một quá trình hòa bình.
Và cho dù ai nắm được quyền
lực từ các chế độ A Rập láng giềng của Israel đã bị lật đổ hay vẫn còn chưa bị
lật đổ, trong trường hợp tốt nhất, sẽ phải
hàm ơn một giải pháp cho vấn đề Palestin, hay trong trường hợp xấu nhất, sẽ
không có cơ hội nào để sử dụng cái di sản
phiền hà của cuộc xung đột Trung Đông để lập nên chính sách.
Đối với phương Tây, bước
này là một món nợ từ quá khứ đế quốc của nó vẫn chưa được trang trải giữa nó và
thế giới A Rập: việc tạo ra các nước A Rập trong vùng này từ vùng đất Ottoman
Palestin xưa, bên trong những đường biên giới của năm 1967, mà thế giới ghi nhận
trong Nghị quyết 242 của Liên Hiệp Quốc.
Phần 3: Thời đại của các bạo chúa
Trong ba tuần qua, phiên bản tiếng A Rập của đại bách khoa
toàn thư mở Wikipedia trên Internet đã đưa vào hai mục từ dưới thuật ngữ “cách
mạng Ai Cập”: cuộc cách mạng ngày 23 tháng 7, 1952 và cuộc cách mạng ngày 25
tháng Giêng, 2011. Ngày trước đánh dấu quốc khánh của Ai Cập, nhưng việc ngày
25 tháng Giêng thay thế nó chỉ còn là vấn đề thời gian.
Đến lúc đó, cuộc cách mạng tháng Bẩy 1952 sẽ là lịch sử -
nhưng là một mẩu lịch sử mà không có nó thì người ta không thể hiểu được “Ngày
Phẫn nộ” bắt đầu ở Ai Cập cách đây năm tuần. Với một cuộc đảo chính do “Phong
trào Sĩ quan Tự do” xung quanh Gamal Abdel Nasser dàn dựng tháng Bẩy năm 1952,
nhà nước cảnh sát và quân đội đã tự dựng lên trong thế giới A Rập, đánh dấu sự
khởi đầu của những chế độ bạo tàn mà ngày nay nhân dân trong vùng đang tự giải
thoát ra khỏi chúng. Đây là căn bệnh trầm trọng thứ hai mà phần này của thế giới
đã chịu trong 60 năm.
Phe nhóm xung quanh vua Farouk I, một tay máu mê cờ bạc phì
nộn và nghiện rượu, mà các sĩ quan Ai Cập đầy sang Italy, là một lũ người thối
nát và vô dụng như những ông vua và tổng thống khác vẫn còn trong dinh sau các
thời kỳ thuộc địa và nửa thuộc địa dưới sự ủy trị của Anh và Pháp – từ Baghdad
đến Tripoli đến Damascus.
Chán ghét sự nhu nhược của các chế độ này so với các chính
quyền thực dân trước kia và và một Israel đang ngày càng mạnh lên, Nasser, con
người có sức lôi cuốn, đã làm một tấm gương cho Ai Cập. Ông xây dựng một nhà nước
dân tộc chủ nghĩa, liên A Rập, mà ông dần dần cai trị bằng nắm đấm thép. Ông quốc
hữu hóa các doanh nghiệp, đầu tiên từ những công ty lớn rồi đến những công ty
nhỏ hơn, và bằng cách làm thế, đã đuổi các cộng đồng thiểu số Armenia và Hy Lạp
cố thủ trong cộng đồng doanh nghiệp. Mặc dầu đã trở thành bộ phận chính thức của
Phong trào Không Liên kết, Ai Cập vẫn rơi
vào ảnh hưởng của Liên xô đầu những năm 1960.
Sự tôn sùng đối với Nasser
Nasser đã khủng bố dã man các kẻ thù chính trị và các thành
viên của Tổ chức Islamist Huynh đệ Hồi giáo. Ông ta đã cho các nhân viên gián
điệp xâm nhập các nước láng giềng không hoan nghênh mô hình xã hội của ông, các
nước như A Rập Saudi và Jordan, cả hai nước này có những ảnh hưởng bộ lạc mạnh
mẽ. Ông ta ủng hộ các nước khác chiến đấu chống lại các kẻ thù của ông ta, như
Syria và Cộng hòa A Rập Yemen, với những hoạt động quân sự nói chung thất bại
thảm hại.
Nhưng các sĩ quan đầy tham vọng trong các nước A Rập khác bị
tấm gương Nasser gây ấn tượng sâu đậm. Nhiều nhà độc tài và bạo chúa tương lai ở
Trung Đông, như Saddam Hussein ở Iraq, Gadhafi ở Libya và Saleh ở Yemen, mặc dầu
không luôn luôn nhất trí với nhau, trước sau đều tôn sùng lãnh tụ Ai Cập. Cuộc
đảo chính của Phong trào Sĩ quan Tự do ở Cairo được kế tiếp bởi các cuộc nổi loạn
cung đình ở Baghdad (1958), Sana’a (1962) và Tripoli (1969).
Các chế độ lên nắm quyền ở các nước này giống như chế độ của
Nasser. Chúng là Liên A Rập, dân tộc chủ nghĩa và là những nhà nước cảnh sát và
phe đối lập mau chóng bị đưa vào khuôn phép. Con người cá nhân A Rập bị đập nát
trong các nhà tù tra tấn ở Ai Cập, Iraq, Syria và Libya. Những hậu quả của việc
hủy hoại phẩm giá con người A Rập phải mấy thập kỷ sau mới hiện ra. “Thảm kịch
Mỹ ngày 11 tháng Chín được sinh ra trong các nhà tù A Rập,” Tác giả Mỹ Lawrence
Wright viết trong cuốn sách của ông “Ngọn tháp mờ: Al-Qaida và con đường đến
ngày 11/9.”
Nasser tạo ra nguyên mẫu của nhà nước cảnh sát đàn áp, mà tuổi
trẻ của thế giới A Rập ngày nay đang nổi lên chống lại. Thậm chí những kẻ thống
trị ở Vịnh Persic một thời đã là những kẻ thù tệ hại nhất của ông ta, cũng tổ
chức lực lượng cảnh sát của họ trên cơ sở kiểu mẫu của ông.
Những đất nước của
kẻ cướp tham nhũng
Di sản chính trị của Nasser cũng có hàm ý về kết quả tiềm
tàng của các cuộc cách mạng A Rập. Phương Tây có lẽ đã sai khi theo gương của cựu
Tổng thống Mỹ George W. Bush ở Iraq và đối xử với những tàn dư thảm hại của các
chế độ này giống như nó đã làm với các chế độ toàn trị ở châu Âu, ủng hộ việc giải
tán các chính phủ và các bộ máy đảng, như Bush đã làm ở Iraq năm 2003. Những
nhân vật như Mubarack, cựu tổng thống Tunisia Zine El Abidine Ben Ali hay
Gadhafi không nên so sánh với những người như Hitler và Stalin, như tác giả
Libya Hisham Matar nói tuần này, mà nên so sánh với những tội phạm như Al
Capone.
Họ để lại dằng sau các nước băng đảng trộm cướp tham nhũng
và những xã hội được tổ chức tồi đòi hỏi phải giáo dục lại hàng triệu người.
Các đảng chính trị đã đánh mất cái cốt lõi tư tưởng của chúng từ nhiều thập kỷ
trước, nếu ban đầu chúng có một cốt lõi tư tưởng. Tư cách đảng viên của nhiều đảng
cầm quyền chưa bao giờ là cái gì hơn một phương tiện để kiếm chác ít ra là những
món lợi nhỏ mà tổ chức của họ ban cho trong một chế độ hoang tàn ảm đạm. Việc
trừng trị tất cả mọi đảng viên sẽ là sai lầm.
Đặc biệt khó giải quyết đối với Trung Đông sau cách mạng là
cái di sản của tệ sùng bái cá nhân Nasser đã in sâu vào thế giới A Rập: khuynh
hướng của toàn hệ thống đối với những gương mặt cá nhân mà sự giống nhau của
chúng được tả trong một quang cảnh phát ngán từ Mauritania đến Muscat, dưới dạng
hàng ngàn hàng ngàn áp phích, tranh ảnh và những bức tượng phô trương.
Điều này thậm chí áp dụng cho những nước có tệ quan liêu như
Ai Cập và Tunisia, nhưng đặc biệt cho những nước như Libya và Yemen nơi thực chất
không có chính phủ và hệ thống hành chính ngoài phe nhóm lãnh đạo. Những nước
này có lẽ chỉ có những cơ may bảo đảm ổn định tệ hại nhất trong tương lai có thể
thấy trước, bởi vì những người như Gadhafi và Tổng thống Yemen Saleh sẽ không để
lại đằng sau dù chỉ một cái khung cơ bản của một cấu trúc quyền lực mà một người
khác có thể điền vào. Những nước này có thể được lợi nhiều nhất từ sự can thiệp
trực tiếp của phương Tây để phòng ngừa sự sụp đỏ chính phủ giống như Somalia,
dù là viện trợ nhân đạo từ cộng đồng quốc tế, viện trợ thiết lập một xã hội
công dân hay thậm chí can thiệp quân sự.
Nắm lấy quân đội
Chỉ có một trong số những di sản của Nasser có lẽ tỏ ra có giá trị trong những cuộc nổi dậy
hiện nay trong thế giới A Rập, là quân sự hóa các xã hội A Rập, và truyền thống
quân đội mạnh. Được chuẩn bị kém để đối phó với chiến tranh như Ai Cập và
Tunisia, trong các cuộc cách mạng lãnh đạo quân sự tại hai nước này đã xử sự thận
trọng và khôn ngoan, không tự cho phép họ bị lạm dụng để đàn áp cuộc nổi dậy.
Điều này mang lại hy vọng cho những nước có thể vẫn còn phải
đối mặt với biến động cách mạng. Giống như Ai Cập và Tunisia, các nước Syria,
Morocco và Algeria cũng có chế độ cưỡng
bức quân dịch, và các tướng lĩnh các nước này sẽ suy nghĩ kỹ càng và căng thẳng
trước khi ra lệnh cho quân lính của họ bắn vào những người biểu tình.
Tình hình này là khác ở những nước như Libya, kẻ độc tài đã sử dụng lính
đánh thuê nước ngoài để đè bẹp sự chống đối của dân chúng, và các nước vùng Vịnh
như Bahrian và A Rập Saudi, những kẻ thống trị các nước này duy trì lực lượng
dân quân của các bộ lạc hoặc quân đội riêng, có một bộ phận là người nước
ngoài.
Vẫn chưa rõ rằng sự điềm đạm của lãnh đạo quân đội Ai Cập và
Tunisia có vượt qua được cuộc khủng hoảng
nghiêm trọng về cung cấp, có thể bùng ra bất cứ lúc nào, hay không. Cũng
còn cần chờ xem liệu các tướng ở Cairo có theo
gương người Tunisia quay về doanh trại và chuyển giao quyền lực cho giới
dân sự hay không.
Hoa Kỳ có lẽ sẽ chịu các quân đội
của Trung Đông, nhưng cả châu Âu nữa cũng buộc phải chấp nhận cái ý tưởng rằng
đôi khi một trật tự quân đội còn hơn không có trật tự gì cả, và rằng ngay cả
nhà nước toàn trị của Nasser có thể cũng đã để lại một công cụ có thể giúp Ai Cập
vượt qua khỏi một thời kỳ quá độ khó khăn.
Phần 4: Giã biệt chủ nghĩa cộng sản, xin chào những người
Islamit chiến đấu.
Phương Tây lúc đó đang trong thời kỳ khá tốt đẹp với người kế
vị Nasser, Anwar al-Sadat. Đây phần nào là kết quả của cách thức đánh bóng bản
thân của ông ta, nhưng cũng là kết quả của
sức mạnh thấy rõ; với sức mạnh ấy, vào đầu thập kỷ 70, ông ta bước chân lên con
đường ký một hiệp ước hòa bình với Israel, lấy lại phẩm giá cho người Ai Cập.
Tuy nhiên, trên hết, nó là một kết quả của Chiến tranh Lạnh.
Sadat đã vứt đi những cố vấn quân sự Liên xô mà Nasser đã
mang vào. Ông hòa giải Ai Cập với các nước phương Tây mà bản thân Nasser đã xa
lánh. Cuối cùng, ông thả các lãnh đạo của Huynh đệ Hồi giáo khỏi nhà tù, ít nhất
là những người mà Nasser chưa hành hình.
Đây là một xu hướng rộng rãi trong những năm 1970 và đầu
1980, được phương Tây đặc biệt ủng hộ, để củng cố các lực lượng Islamist nhằm
làm yếu các đảng cộng sản hoặc các nước và các tổ chức thân Liên xô, như PLO.
Nhìn lại, rõ ràng là các hậu quả của chiến lược này là thê thảm. Nó gây ra căn
bệnh thứ ba làm khốn khổ Trung Đông, và rốt cuộc cả phương Tây: chủ nghĩa
Islamist chiến đấu.
Dù là Sadat ở Ai Cập, cựu Tổng thống Muhammad Zia ul-Haq ở
Pakistan, cựu Thủ tướng Turgut Özal ở Thổ Nhĩ Kỳ hay tổ chức Wahhabite của A Rập
Saudi, hay thậm chí Israel trong các lãnh thổ Palestin và Hoa Kỳ ở Afghanistan
– trong cuộc Chiến tranh Lạnh mà mọi người theo đuổi thì nguyên tắc vẫn là kẻ
thù của kẻ thù ta là bạn ta. Ai cũng được hoan hô, miễn là người đó chống cộng.
Những hậu quả
không lường trước
Những hậu không lường trước của chính sách này gồm có Liên
xô thất bại ở Afghanistan và sự sụp đổ của đế quốc Xô viết. Tuy nhiên, những hậu
quả không lường trước của nó còn gồm cả những cuộc tấn công khủng bố ngày 11
tháng Chín, 2001 cũng như sự Islamist hóa rộng rãi các xã hội A Rập, khiến nhiều
người chào đón các cuộc cách mạng 2011 với quá nhiều lo âu bối rối.
Liệu có lý do gì để lo lắng như thế không? Liệu Ai Cập,
Tunisia và những nước theo chân chúng có đi con đường mà Iran đã đi năm 1979
không?
Những sự kiện trong mấy tuần gần đây đã cho thấy, ít nhất là
ban đầu, rằng không một nước nào trong số đó đến bây giờ đã có một dấu hiệu dù
nhỏ nhất của một nhân vật nổi lên có thể so sánh với Ayatollah Ruhollah Khomeini,
con người đã xúc tiến và cuối cùng đã cướp đoạt cuộc cách mạng Iran năm 1978 và
1979.
Trái lại ở Ai Cập, chiếc nôi của Hồi giáo chính trị, Huynh đệ
Hồi giáo chỉ tham gia nổi dậy sau một thời gian dài ngập ngừng do dự. Cho đến
nay, không có ai trong số các đại diện của nó hô hào cấm rượu, đòi hỏi phụ nữ
phải đeo mạng che mặt hay kêu gọi một cuộc nổi dậy trong toàn thế giới Hồi
giáo.
Tại Bahrain nơi giống như Iran năm 1979, ban đầu những người
Shiite biểu tình chống chế độ, lãnh đạo của họ, Sheikh Ali Salman, đã nói rõ rằng
ông không tin vào những nguyên tắc "Velayat-e faqih" của Khomeini hay
“những nguyên tắc luật Islamist.” Ngược lại, ông luôn nói rằng ông và các đồng
bào Shiite của ông, những người cảm thấy bị chế độ phân biệt đối xử, chỉ muốn
cái cách và có một phần trong chính quyền. Tuy nhiên thứ Tư tuần trước một dòng
người biểu tình ở Manâm lần đầu tiên đã trở nên chia rẽ. Đàn ông đàn bà đi tuần
hành tách riêng.
Sự tập trung méo
mó vào mối đe dọa Islamist
Sự vắng mặt đáng chú ý trong các cuộc cách mạng 2011 là giọng
nói của lãnh tụ al-Qaida Osama bin Laden. Không có một lời nào phát ra từ ông
hoàng của bóng tối, một người ít khi thấy không sẵn lòng lên tiếng trong những
năm gần đây. Mặc dầu người phó của bin Laden, giáo sĩ Ai Cập Ayman al-Zawahiri,
đã bình luận về các cuộc nổi dậy A Rập, nhưng bài diễn thuyết của ông ta đã bị
chìm đi trong tiếng reo mừng của những người nổi dậy. Có vẻ như al-Qaida đã bị
những cuộc nổi dậy của dân chúng A Rập làm cho bất ngờ như chính bản thân những
kẻ độc tài A Rập.
Điều này không có nghĩa là chủ nghĩa thánh chiến Hồi giáo quốc
tế, chưa nói đến Hồi giáo chính trị nói chung, đã kết thúc. Các nước cực nghèo
và được tổ chức yếu nằm trong nguy cơ trầm trọng, đặc biệt những nước như
Yemen, nơi các phong trào Islamist cực đoan đã ăn rễ sâu. Ở Yemen tuần này,
giáo sĩ kiệt xuất Abdul Majeed al-Zindani, biệt danh "sheikh đỏ[2]"
và là một cố vấn của Osama bin Laden, đã tham gia vào cuộc nổi dậy và yêu cầu tạo
ra một “nhà nước Islamist.” Ngay cả những nước như Tunsia và Ai Cập cũng không
thoát khỏi cơn lở đất Islamist.
Nhưng cũng phi lý và khinh suất là đòi hỏi ngược lại, tức là
các cuộc cách mạng 2011 nhất định phải kết thúc với sự quét sạch những người
Islamist. Việc phương Tây gắn chặt mối đe dọa Islamist từ những cuộc tấn công
11/9 đã làm méo mó cái nhìn của nó về căn bệnh thứ tư và có lẽ là cấp tính nhất,
đã làm khốn khổ Trung Đông, những điều kiện ngay từ đầu đã gây nên làn sóng nổi
dậy hiện nay: nghèo đói và bất công xã hội, và việc các chế độ ở Trung Đông đã
không thể tìm ra câu trả lời cho những hậu quả kinh tế của toàn cầu hóa.
Phần 5: Một kế hoạch
Marshall cho Thế giới A Rập?
‘Chủ nghĩa Nasser đã chết, chủ nghĩa Baath đã thất bại và đạo
Hồi chiến đấu đã đến gần kết cục đẫm máu của nó. Chủ nghĩa tư bản A Rập muôn
năm!” tác giả Ai Cập Youssef Ibrahim tuyên bố cách đây sáu năm. Ông ta đang ngồi
trong căn hộ của mình ở Dubai, đăm đăm nhìn ra những công trường xây dựng trong
một thành phố, không giống những thành phố khác, tượng trưng cho tinh thần thầu
khoán đang chiếm lĩnh thế giới A Rập vào thời gian đó.
Sự bùng nổ này, phần nào do việc tăng giá dầu sau chiến
tranh Iraq gây nên, đã hấp dẫn hàng trăm ngàn người Ai Cập, Morocco, Palestin,
và Lebanon đến vùng Vịnh. Nhiều người là thanh niên giống như chuyên gia công
nghệ thông tin Wael Ghonim là người sau này sẽ đóng một vai trò quan trọng
trong cuộc cách mạng A Rập, với tư cách là một nhân viên của Google.
Khi họ trở về nhà, họ mang theo hai thứ: thu nhập mà họ khó
nhọc mới kiếm được bằng cách làm kỹ sư, kế toán, và quản lý khách sạn và một thế
giới quan mới mẻ, không có tính đầu óc hẹp hòi và những hạn chế như ở quê nhà.
“Trong nhiều năm, tất cả những người công nhân từ nước ngoài đến A Rập Saudi
làm việc trở về chỉ mang theo những áo choàng tôn giáo và những tư tưởng cuồng
tín,” Youssef Ibrahim nói. “Nhưng từ Dubai họ mang về những quần jeans xanh cho
vợ, những áo hai dây, những điện toại di động và kiến thức về cách kiếm tiền.”
Những chế độ ù lì ở phía tây của thế giới A Rập đã phải mất
một thời gian để điều chỉnh theo những thay đổi. Nhưng sau đó tất cả đã diễn ra
rất chóng vánh. Đặc biệt là giới thượng lưu cầm quyền, như ở Ai Cập và Tunusia,
đã chia chác với nhau những ngành công nghiệp then chốt của đất nước, muốn đầu
tư vào sự tăng trưởng kinh tế này. Trong vài năm thị trường chứng khoán trong
các thành phố như Cairo, Amman và Tunis đã bùng phát. Các tầng lớp cao trong xã
hội hái ra tiền, nhưng không có chút nào nhỏ giọt xuống các giai cấp thấp hơn.
Chủ nghĩa tự do mới đã đến với Trung Đông. Nó là chủ nghĩa Reagan-kinh tế dưới bóng
cọ.
Một quang cảnh ngoạn mục
Những người như ông trùm thép Ahmed Ezz, bạn thân của Gamal
con trai Mubarack, người bị bắt từ ngày ấy, đã xây những cao ốc chọc trời trên
hai bờ sông Nile có thế tranh đua với những ngọn tháp Dubai và Doha. Công nhân
trong các doanh nghiệp của chính phủ điều hành theo lối xã hội chủ nghĩa không
có gì ngoài những quang cảnh ngoạn mục.
“Làm thế nào mà những kẻ có sự bảo kê từ bên trên có thể kiếm
những công việc béo bở mà không phải cố gắng gì,” bác sĩ trẻ Rana Khalifa hỏi “Trong
khi tôi cày như trâu trong phòng cấp cứu với số lương cơ bản 30€, và phải cảm
thấy hạnh phúc khi tìm được việc?” Một cảm giác bất công xã hội cơ bản bắt đầu
lan rộng. Nó đúng là cái cảm giác đã đẩy người thanh niên Tunisia Mohammed
Bouazizi đến chỗ tự thiêu ngày 17 tháng 12, 2010. Chính là nỗi oán hận sâu sắc
tích lũy trong nhiều năm đã châm ngòi cho các cuộc cách mạng A Rập.
Qủa thật, vấn đề cấp thiết nhất giờ này không phải là những
người Islamist hay các đảng thế tục sẽ lên nắm quyền ở Ai Cập, Tunisia, Libya
và sau này có lẽ là Syria và Jordan. Vấn đề cấp thiết nhất là: Ai sẽ giải quyết
những vấn đề kinh tế khổng lồ của các nước này, và ai sẽ lấp cái vực sâu ngăn
cách giầu nghèo? Hơn một nửa dân số các nước Maghreb trẻ hơn 30 tuổi. Ai sẽ tạo
ra 700.000 việc làm mà chỉ riêng Ai Cập đã cần, để cung cấp tiền lương và thực
phẩm cho số sinh viên tốt nghiệp trung học chỉ trong một năm?
Hiển nhiên là các nước Trung Đông này không thể thực hiện
nhiệm vụ đó một mình, dù là ai gánh vác. Ngoài các nước sản xuất dầu giầu có,
phương Tây và đặc biệt các nước châu Âu láng giềng, nên tiến lên nhận lấy trách
nhiệm.
Khi Hoa Kỳ ngó sang cựu lục địa hoang tàn sau Thế Chiến II,
nó nhận ra thách đố lịch sử nằm trước mắt. Chỉ đánh bại chủ nghia phát xít thôi
thì chưa đủ. Châu Âu cần được giúp đỡ để ngăn chặn những cuộc chiến tranh mới,
những cuộc nội chiến và sự khủng hoảng tị nạn khỏi phát triển. Để xử lý thách
thức này, Washington đã tạo ra kế hoạch Marshall, chương trình viện trợ dân sự
lớn nhất mọi thời đại. năm 1948, Quốc hội Hoa Kỳ đã thông qua một ngân sách bốn
năm 13 tỉ đô la cho chương trình này. Nó là nền tảng để xây dựng hòa bình và an
ninh trên lục địa này. Những người Mỹ thông minh đang suy nghĩ về những điều
khoản tưong tự hiện nay, rất lớn thậm chí khổng lồ. Chẳng hạn nhà bình luận của
New York Times Thomas Friedman đã đề
nghị sử dụng những thay đổi triệt để ở Trung Đông như một cơ hội để cuối cùng
giải thoát phương Tây và thế giới A Rập ra khỏi cái tai ương dầu hỏa.
Tầm nhìn châu Âu
thấu đáo
Nghe cứ như một ý tưởng ngược đời. Làm thế nào thế giới A Rập
có thể sống sót nếu nó mất đi nguồn tài nguyên hầu như duy nhất của nó? Tuy
nhiên, tiến thêm bước nữa, đề nghị của Friedman bộc lộ một tầm nhìn hoàn toàn
khác và có tính châu Âu sâu sắc.
Hai năm trước, do sự khơi gợi của Câu lạc bộ Rome, một côngxoocxiom của các công ty Đức, Pháp,
Ý, và Anh đã lập một dự án cơ sở hạ tầng khổng lồ gọi là Desertec. Mục tiêu của
cái dự án năng lượng có lẽ tham vọng nhất hiện nay là xây dựng những nhà máy
nhiệt điện năng lượng mặt trời ở Trung Đông và Bắc Phi có thế sản xuất ra điện
cho khu vực này và, trong dài hạn, đáp ứng được những nhu cầu năng lượng của cả
châu Âu nữa.
Đã có những dự toán chính xác cho dự án này. Trung tâm
Aerospace của Đức dự tính tổng vốn đầu tư là 400 tỉ € vào năm 2025 – Kế hoạch
Marshall châu Âu cho Bắc Phi.
Hoàng thân Hassan Bin Talal, chú của vua Jordan Abdullah II,
kêu gọi một dự án có tầm cơ tương tự, một quỹ mà, ngoài những người khác, các sheikh siêu-giàu của vùng Vịnh sẽ đóng
góp. Vị hoàng thân đó nói, Alm là một phần của nền tảng văn hóa đạo Hồi. Quỹ này sẽ khuyến khích sự phát
triển đồng đều của toàn bộ khu vực, đó chính xác là những gì mà kế hoạch
Marshall đã đạt được ở châu Âu sau Thế Chiến II.
Chính trị và những
tỉ bạc
Ông hoàng cũng hy vọng vay mượn được một quan niệm từ châu
Âu. Đúng như Robert Schuman và Jean Monnet thành lập Cộng đồng Than và Thép
Châu Âu, hạt nhân của sự đoàn kết châu Âu cuối cùng đã lớn lên thành Liên Hiệp
Châu Âu hiện nay, một thiết chế đa dân tộc cần được thành lập trong khu vực này
sẽ giảỉ quyết vấn đề nước và cung cấp năng lượng của khu vực.
Nhưng tất cả những
cái này là những dự án tương lai. Cấp bách hơn là nỗi lo ai sẽ cung cấp trợ
giúp tức khắc và ai có thể giúp các lãnh đạo mới sống sót qua những tuần lễ đầu
tiên lên cầm quyền.
Khi Ngoại trưởng Đức Guido Westerwelle sang thăm Tunisia mấy
ngày sau cuộc cách mạng, ông đă hứa cho nước này 3,2 triệu € để chuẩn bị những
cuộc bầu cử đầu tiên của nó. Đó là một cử chỉ cảm động, biết rằng có những
thách đố mà lãnh đạo mới của Tunisia phải đối phó.
Và đó cũng là một sự hiểu lầm. Ở Trung Đông không còn là vấn
đề những cử chỉ và những triệu bạc. Trái lại, nó là một vấn đề chính trị - và
những tỉ bạc.
Christopher
Sultan dịch từ tiếng Đức
Mùa xuân A rập đã ngưng lại?
Các nền độc tài đã giành được đất ở Trung Đông?
SPIEGEL, 18/05/2011
Những nhà thờ cháy ở Cairo, những người chết và bị
thương ở Libya và Yemen, và một sự im lặng chết chóc ở Bahrain. Phong trào chống
đối A rập đã đi đến một điểm dừng, và các vua chúa, các tiểu vương và Sultan
đang tập hợp lại để phát động một cuộc phản cách mạng.
Theo “Quy luật Cơ bản
của Cách mạng,” các chế độ sụp đổ khi các tầng lớp ở dưới đáy không thể chịu đựng
được tình trạng hiện tại nữa, và các tầng lớp trên đỉnh không thể tiếp tục nắm
quyền được nữa.
Đó là kinh nghiệm của Vladimir Ilyich Lenin.
Nhưng khó khăn nổi lên khi có chuyện những kẻ ở
trên đỉnh vẫn còn đủ khả năng hành động, tức là, dùng xe tăng để nói chuyện với
các đối thủ của chúng – như trong trường hợp Syria và Libya.
Tuần
trước, chế độ Syria đã đưa trọng pháo vào thành phố nổi dậy Dara’a, trong khi
các lực lượng của nó tấn công các sinh viên chống đối bằng dùi cui trong thành
phố Aleppo trước đó còn yên tĩnh, ở Banias trên bờ Địa Trung Hải, và trong thành phố tây bắc Syria Homs. Theo Tổ chức Ân
xá Quốc tế, vào thứ Ba vừa rồi 580 người đã chết trong bạo loạn. Theo Cơ quan
Nhân quyền Liên Hiệp Quốc, số người chết lên đến 850.
Ở
Libya, Đại tá Moammar Gadhafi đang tấn công những người nổi dậy bằng lính bắn tỉa
và súng cối. Được yểm trợ bởi các cuộc không kích của NATO, những người nổi dậy
đã cố chiếm được sân bay trong thành phố ven biển Misurata. Tuy nhiên,không hề
có cảm giác như nhà lãnh đạo đã đến giờ tận số, mặc dầu có tin đồn rằng Gadhafi
đã bị thương và đã rời thủ đô Tripoli. Trong một phát biểu trên đài truyền
thanh sau đó, Gadhafi thông báo cho “những kẻ hèn nhát tham gia bạo động” rằng
ông ta đang sống tại một nơi mà “họ không thể tìm ra và giết tôi.”
Các cuộc cách mạng có
thể thất bại
Tình
hinh đã trở nên khó khăn hơn khi nhiều công dân bình thường quay ra chống lại
cách mạng, như trường hợp đã xảy ra ở Tunisia và Ai cập, cũng như Yemen và
Oman. Như sau này mới rõ, nó chỉ là tầng lớp đặc quyền đặc lợi gắn bó nhất với
các lãnh đạo chuyên chế, những kẻ đang sợ hãi cho địa vị đặc quyền đặc lợi của
chúng. Những nỗi sợ ấy còn được chia xẻ bởi hàng nghìn hàng nghìn những kẻ dính
líu với bộ máy béo mập của những chính đảng và chính phủ. Và địa vị và thu nhập
của họ càng thấp xuống, thì họ càng điên cuồng bấu víu vào hệ thống sẵn có, đặc
biệt là vì những công chức bình thường không có khả năng vơ vét cho đầy túi và
mở những tài khoản (trương mục) ở các ngân hàng Thụy sĩ.
Cuộc
cách mạng A rập đã đi đến một giai đoạn ngưng trệ và tất cả mọi dấu hiệu đều
cho thấy sự lập lại trật tự hiện hành. Thế giới A rập đã đến một điểm tại đó
nhiều cuộc cách mạng đã mệt lử và những kẻ đang cầm quyền không chịu từ bỏ. Chịu
ảnh hưởng của các hình ảnh reo mừng từ
Tunis, Benghazi và Cairo, nhiều người đã quên rằng các cuộc cách mạng
cũng có thể thất bại.
Những
gì thành công ở Trung và Đông Âu hai mươi năm trước, không nhất thiết lặp lại ở
Trung Đông. Người Tunisia và người Ai cập chắc chắn đã làm nên lịch sử, nhưng
các chế độ ở các nước mà con virus cách mạng của họ đã tràn sang không có ý định
để cho các chính phủ của chúng vỡ bục ra.
Màn
đầu tiên trong vở kịch cách mạng ở thế giới A rập kết thúc khi Đại tá Libya
Gadhafi từ chối đi lưu vong, như cựu Tổng thống Tunisia Zine El Abidine Ben
Ali, hay rút lui, như Tổng thống Ai cập Hosni Mubarak, thay vì ra lệnh cho bọn
đầu trâu mặt ngựa bắn vào chính nhân dân của mình. Sự ngoan cố của Gadhafi đã cổ
võ nhiều tên độc tài khác. Nếu nhà độc tài Libya theo chân cựu tổng thống
Tunisia Ben Ali và thoái lui, thì sẽ không có xe tăng trên đường phố hay nhân
dân bị dồn vào sân bóng đá ở Syria.
Ba cách tiếp cận khác
nhau.
Màn
thứ hai của cái gọi là “Mùa xuân A rập” ngửi thấy mùi khói thuốc súng và khói các
nhà thờ cháy sặc sụa hơn mùi hoa nhài. Dưới ánh sáng đầu hè, một số sự vật
trông khác hơn cái vẻ của chúng chỉ mới cách đây tám tuần. Trong nhiều trường hợp,
tình trạng hiện hành dường như cố thủ vững đến nỗi chỉ một cuộc cách mạng
Facebook không thôi không còn có thể đột ngột chuyển nó thành những hình ảnh
nhân dân nhảy múa trên đường phố.
Những
tên bạo chúa thường dựa vào một bộ phận tiêu biểu những doanh nhân, quan chức đảng,
công chức nhà nước và sĩ quan quân đội, là những kẻ không có gì để mất ngoài những
xiềng xích của chúng. Trong nhều thập kỷ, những kẻ thống trị như Ali Abdullah
Saleh ở Yemen, Gadhafi ở Libya, gia đình Assad ở Syria và bè lũ Khalipha ở
Bahrian đã cố gắng xây dựng một mạng lưới bảo trợ và những phe phái chống đối
nhau.
Dưới
ánh sáng gay gắt mấy tuần gần đây, đã hình thành ba cách tiếp cận mà các chế độ cũ dùng để đối phó với khủng hoảng.
Đầu
tiên là cách mà lãnh đạo Trung Hoa đã chọn trên Quảng trường Thiên An Môn năm
1989 – man rợ đè bẹp mọi sự phản kháng. Các chế độ ở Libya, Syria và Yemen hiện
nay đang thử cách này để xem tác dụng của nó. Bahrain hình như đã khai thác nó
thành công.
Phương
pháp thứ hai được giới quân sự Thổ Nhĩ Kỳ sử dụng sau các cuộc đảo chính của nó
vào các năm 1960, 1971 và 1980 - một nền dân chủ chật hẹp nhưng có thể mở rộng,
do quân đội kiểm soát. Đây là kịch bản đã được triển khai ở Tunisia và Ai cập.
Và
sau đó có con đường thứ ba, nhỏ hẹp, con đường cải cách trực tiếp từ bên trên.
Các nền quân chủ ở Jordan, Oman, Saudi Arabia và Morocco, cũng như Tổng thống
Algeria Abdelaziz Bouteflika, biết rằng thế hệ trẻ đang đòi được tham dự nhiều
hơn và về lâu dài sẽ không thỏa mãn với những xoa dịu theo cách độc tài. Các
nhà thống trị này đang cố gắng bám lấy chính quyền bằng cách thực hiện những
nhân nhượng nho nhỏ.
2.
‘Hãy chọn chúng tôi, nếu
không là loạn’
Cuộc
đàn áp thẳng tay của chính phủ Syria đối với những người biểu tình rất giống với
cách làm của Trung Hoa. Bouthaina Shaaban, bạn gái và người phát ngôn của Tổng
thống Bashar Assad, đã cho phép một nhà báo Phương Tây duy nhất vào nước này tuần
trước, một phóng viên Trung Đông cho tờ New York Times. Trong một cuộc nói chuyện
với phóng viên này, Shaaban nói cuộc nổi loạn là việc làm của “một tổ hợp những
kẻ chính thống, quá khích, bọn buôn lậu, những kẻ tù cũ và chúng đang được sử dụng
để gây rối.” Kết cục của những cuộc phản kháng đang đến gần, bà ta nói thêm rằng
chế độ đã vượt qua được thời điểm xấu nhất của cuộc nổi loạn, và rằng đây là thời
gian để khởi đầu một cuộc “đối thoại dân tộc.”
Trong
khi đó, chính phủ đánh lại những người biểu tình còn dữ dội hơn trước. Nhiều
thành phố ở miền Nam Syria đã hoàn toàn bị cắt lìa khỏi thế giới bên ngoài.
Theo luồng thông tin từ Dara’a, cung cấp điện và nước đã bị cắt, rất hiếm thực
phẩm có thể đến được thành phố này, và những cuộc nổ súng vẫn tiếp tục. Các nhà
hoạt động nhân quyền Syria báo cáo chỉ riêng hôm thứ Tư vừa qua đã có 13 người
chết và lưu ý rằng trong số những người bị giết có một em bé tám tuổi.
Được
biết bộ máy an ninh Syria cũng đã sử dụng phần mềm và phần cứng do Iran cung cấp
cho chế độ làm ngưng hoạt động của dịch vụ điện thoại di động. Tehran chối cãi
điều này, tuy vậy nó vẫn là một trong số ít đồng minh ủng hộ cho chế độ thế tục
của đảng Baath ở Damascus.
Chế
độ này bào chữa cho những hành động của nó bằng những lý lẽ nó vẫn luôn luôn
dùng để bảo vệ nhà nước cảnh sát của nó. “Nếu ở đây không có ổn định thì sẽ
không bao giờ có ổn định ở Israel.,” anh họ của Assad, thương gia Rami Makhlouf
nói. Thông điệp là: Hãy chọn chúng tôi, nếu không thì sẽ loạn.
Syria
cũng đã bị lên án vì xúi giục bạo lực ngày 16 tháng Năm dọc biên giới Israel,
nơi lính Israel bắn và giết khoảng 15 người Palestin tham gia vào cuộc diễu
hành thường niên ở đó để đánh dấu nabka,
hay “thảm họa” của việc dời chỗ của họ sau khi nhà nước Israel được thành lập
năm 1948. Washington cáo buộc rằng chính phủ Syria đã khuyến khích sự tham gia
chưa từng có, với những người đến từ Lebanon, Gaza và Syria để làm tràn ngập
Israel và gây nên sự cố này để đánh lạc hướng chú ý khỏi cuộc đàn áp dã man những
người biểu tình và chứng tỏ rằng sự ổn định mong manh trong vùng này chỉ có thể
được duy trì nếu Assad còn nắm quyền. Assad khó có thể theo cách làm dã man này
nếu ông ta không tin rằng các quan chức ở Washington, Ankara, và một số thủ đô
châu Âu và ngay cả Jerusalem lặng lẽ yên tâm rằng đất nước ông ta vẫn còn chưa
bị chia cắt, như Libya sau cách mạng, và chưa lao vào một cuộc nội chiến tôn
giáo hoặc như Iraq cách đây mấy năm. Đối với những chính sách thực dụng này
trong khu vực của ông ta và ở Phương Tây, Assad vẫn là một nhà độc tài có thể đoán trước. Tối thứ Sáu vừa qua, báo chí Anh
đã không bình luận về sự kiện rằng vợ ông ta, người lớn lên ở Anh, cùng với ba
con nhỏ của họ đã bay sang London.
Vinh danh phản cách mạng
Tổng
thống Yemeni Ali Abdullah Saleh hình như đang có những tính toán tương tự , khi
ông ta êm ái vượt qua được cuộc nổi dậy đã sôi sục trong bốn tháng và từ chối mọi
cố gắng của các láng giềng thuyết phục ông ta ra đi trong danh dự. Ông ta thỉnh
thoảng cũng gợi ý đến khả năng rút lui, và đôi khi ông ta đe dọa, như ông ta đã
làm ngày thứ Sáu vừa rồi, khi nói rằng “Chúng ta sẽ chọi lại mọi thách thức bằng
những thách thức của chính chúng ta.”
Những
người chống đối sợ rằng con người đã cai quản đất nước trong hơn ba mươi năm có
thể thành công trong việc chặn họ lại. “Thêm một ngày ông ta còn giữ được quyền
lực, ông ta sẽ làm cuộc cách mạng non trẻ yếu đi,” họ nói. Hôm thứ Tư, những
tay bắn tỉa lại một lần nữa bắn vào một nhóm những người biểu tình tuần hành,
làm bị thương hàng chục người và giết chết một thanh niên.
Ở
Bahrain, hoàng tộc Sunni đã hoàn toàn dập tắt những người phản đối bằng những
người Shiite và những người cải cách. Các lãnh đạo của phong trào đã bị bắt,
các nhà hoạt động bị đuổi việc và báo chí bị bịt miệng. Ỏ thủ đô Manama, Quảng
trường Pearl - trung tâm của các cuộc biểu tình, đã được lát gạch và thiết kế lại.
Bây giờ trên truyền thông người ta gọi nó là “Quảng trường Hội đồng Hợp tác
Vùng Vịnh,” để vinh danh những đội quân từ A rập Saudi và các Tiểu vương quốc Thống nhất đã giúp đỡ
đàn áp cuộc biểu tình ở đó hôm 14 tháng Ba. Bây giờ thậm chí phản cách mạng A rập
cũng có quảng trường anh hùng của nó.
Hoa
Kỳ, hạm đội Năm của nó chỉ đóng cách đó vài kilômet, đã im hơi lặng tiếng về những
sự kiện ở Bahrain.
Các
chính phủ ở Manama, Riyadh và Abu Dhabi biết rằng Washington quan tâm đến việc
duy trì tình trạng ổn định ở vùng Vịnh và Syria hơn ở Bắc Phi. Bởi vậy, họ đã
phớt lờ đồng minh lớn của họ và theo đuổi chính sách “Vâng, chúng tôi có thể”
mà không có Washington.
Những trở ngại phía
trước
Các
tướng lĩnh điều hành mọi việc ở Tunis và Cairo từ khi chính phủ của họ bị lật đổ
không dám nhìn tương lai với sự tự tin như thế. Nếu tin vào những tuyên bố của
họ, họ hình dung một cuộc chuyển đổi từ độc tài sang những trạng thái dân chủ dựa
trên mô hình Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy nhiên để đạt điều này, họ phải phụ thuộc phương
Tây để vượt qua những đối thủ mạnh.
Ở
Tunisia chính phủ mới phải bằng lòng với những người do chế độ Ben Ali để lại,
những người này vẫn giữ những chức vụ cũ trong Bộ Nội vụ và trong kinh doanh.
Ở
Ai cập, chính là nhiều tội phạm được tha hoặc trốn thoát khỏi các nhà tù trong
những ngày cuối cùng của chế độ Mubarack cũng như những lực lượng quá khích
trong Hồi giáo chính trị là người đang thử những quyền tự do mới. Mối đe dọa bắt
nguồn từ những chiến binh này được phản ánh trong những cuộc tấn công đốt phá
nhà thờ Chính thống St. Mina Coptic trong vùng lân cận Imbaba ở Cairo cách đây
hai tuần trong đó có 12 người chết. Bạo lực giáo phái lại bùng nổ ở đây ngày 15
tháng Năm, khi cuộc đụng độ giữa hai bên làm ít nhất 55 người bị thương.
Trong
khi những sự cố này xảy ra, không có bằng chứng về một cuộc chiến tranh tôn
giáo, giống như mô hình Thổ Nhĩ Kỳ, chúng càng chứng tỏ rằng con đường đến đa
nguyên và dân chủ còn đầy trở ngại.
Tình
hình ở Cairo gần đây đã thay đổi “từ xấu đến tồi tệ hơn,” Mohamed ElBaradei,
người Ai cập được giải Nobel và là người có thể ứng cử tổng thống cảnh báo.
“Tôi lo ngại về bọn người Salafist hơn là về Huynh đệ Hồi giáo. Chính bọn
Salafist, những thành viên của một phong trào chính thống là những kẻ đã viện đến
cái mà họ gọi là Hồi giáo nguyên bản, những kẻ đã ám sát cựu Tổng thống Ai cập
Anwar Sadat năm 1981. Họ mơ về thời Trung Cổ, đòi tái lập mọt sắc thuế đặc biệt
lên những người không theo Hồi giáo đã bãi bỏ từ thế kỷ 7, và cầu nguyện –
trong một thánh đường Hồi giáo gần nhà thờ Coptic ở Cairo – cho linh hồn của
lãnh tụ al Qaida Osama bin Laden sau khi ông ta bị giết.
Những
người Islamist cũng có mặt trong những cuộc biểu tình lớn trên Quảng trường
Tahrir hồi đầu năm. Vào thời gian đó, những người biểu tình dựa vào Facebook để
quảng bá những thông điệp của họ, cố gắng duy trì đặc tính thế tục của cuộc
cách mạng của họ. Nhưng vẫn còn cần chờ xem nước Cộng hòa A rập Ai cập thế tục
như thế nào sau cuộc bầu cử quốc hội ấn định vào tháng Chín. Những người
Islamist Thổ Nhĩ Kỳ có nhiều thập niên để chuẩn bị cho các quá trình dân chủ.
Những bạn cùng cảnh ngộ và chí hướng của họ ở Ai cập chỉ có bẩy tháng.
3. Những biện pháp
phòng ngừa
Trong
khi đó, các nước A rập đã dư thừa những cuộc náo loạn lớn nay đang cố gắng thử
một cách tiếp cận mới: con đường ngăn ngừa phản cách mạng
Ngày
càng nhiều những camera theo dõi được lắp đặt ở các Tiểu vương quốc A rập Thống
nhất (UAE) và rong vương quốc A rập Saudi, các công dân đang được yêu cầu báo
cáo bất kỳ một dấu hiệu nào của tư tưởng quá khích cho cảnh sát. Trong cả hai
nước trên cũng như ở Oman và Algeria, chính phủ đã loan báo những dự án xây dựng
nhà ở tốn kém và những chương trình tạo việc làm.
Hội
đồng Hợp tác Vùng Vịnh (GCC), một nhóm tự lực ngày càng mạnh của sáu nước quân
chủ liên quan, đã phát triển thành trung tâm phản cách mạng khai sáng trong mấy
tuần gần đây.
Tại
cuộc họp của nó ở Riyadh tuần trước, hội đồng này đã thông qua chương trình viện
trợ cho Oman và Bahrain đã bị suy kiệt sau những cuộc chống đối, và chấp nhận
đơn gia nhập của Vương quốc Hashemite thuộc Jordan, cũng như đề nghị kết nạp
Vương quốc Morocco làm thành viên.
Điều
này có thẻ có những hậu quả sâu rộng và chia rẽ thế giới A rập thành những phe
mới – câu lạc bộ các nước quân chủ A rập có uy thế và đặc quyền, và các nước
trong đó các phong trào dân chủ non trẻ đã thay thế hoặc vẫn đang cố gắng để
thay thế các nền độc tài thối nát.
Quyền lực xây trên
cát?
Morocco
cách vịnh Ba Tư hơn 5,000 kilomet. Chấp nhận vương quốc này làm thành viên mới,
GCC đang làm bẽ mặt các nước gần hơn nhiều với tầm quan trọng trung tâm: 24 triệu
người Yemen, phụ thuộc viện trợ kinh tế và ủng hộ về chính trị hơn nhiều so với
những người Morocco; và 85 triệu người Ai cập, trong đó có ít nhất 2 triệu công
nhân nước ngoài ngày nay đang kiếm tiền trong các nước quân chủ vùng Vịnh, đặt
gánh nặng lên nền kinh tế Ai cập vốn đã căng thẳng một cách tệ hại.
Sự
hình thành những khối mới làm xuống cấp Liên minh A rập, khiến cho sự đối đầu
chính trị với các nước nghèo, đông dân, những nước hoặc đã rũ bỏ được chế độ cũ
(như Tunisia và Ai cập) hoặc đang cố gắng thoát khỏi chúng (Syria, Yemen),
nhưng cả hai trường hợp đang đối mặt với một tương lai không chắc chắn.
Nghị
viện Saudi và các gia đình thống trị ở Qatar, Kuwait và UAE, dù thế nào cũng chỉ
quyết định chia quyền lực cho nhân dân, nếu có chút nào, theo lối nhỏ giọt.
Ở
Dubai, có tiếng là theo chủ nghĩa thế giới, năm nhà hoạt động nhân quyền đang
ngồi tù vì dám ký đơn thỉnh nguyện đòi có tiếng nói lớn hơn trong các vấn đề
chính trị.
Chỉ
riêng điều này đã đủ nghi ngờ các lãnh tụ Hồi giáo và các tiểu vương A rập. Họ
sợ tình trạng ở Ai cập và theo nhà bình luận Sultan al-Qasimi của tiểu vương quốc
Sharjah, cái cảm thấy một cuộc “hôn nhân tạm thời vì tiện lợi” giữa những người
Islamist và các lực lượng vì tự do.
Các
hình ảnh từ các quảng trường ở Tunis, Cairo, Manama và Sana'a đã khiến những kẻ
thống trị dọc theo vùng Vịnh sợ chêt khiếp. Họ cảm thấy quyền lực của họ có thể
được xây trên cát và rằng không thể làm nguôi giận tất cả những người phản đối
bằng theo dõi chặt chẽ và tiền bạc.
Trong
thế giới A rập hiện nay đang có nhiều bối rối hốt hoảng. Một bình luận thông
minh khác về quá trình cách mạng không đến từ Lenin mà đến từ nhà triết học
Pháp Alexis de Tocqueville. Năm 1856, ông viết: “Thời khắc nguy hiểm nhất đối với
một chính phủ tồi tệ thường đến khi nó bắt đầu tự cải cách nó.”
Christopher Sultan dịch từ tiếng Đức
Nhìn vào những nguyên nhân gốc rễ của cách mạng A
Rập
(Phỏng vấn
nhà xã hội học Pháp Emmanuel Todd)
SPIEGEL,
20/5/2011
Trong một cuộc phỏng vấn
của SPIEGEL, nhà xã hội học Pháp Emmanuel Todd bàn về những gốc rễ nhân khẩu học
của cuộc cách mạng A Rập, mà ông cho là bị thúc đẩy bởi việc số người biết chữ
tăng lên và tỉ lệ sinh sản giảm đi nhanh chóng. Ông còn suy ngẫm về bóng ma
Osama bin Laden, cho rằng “al-Qaida đã chết rồi,” và tại sao Đức không phải là
một phần của “Phương Tây cốt lõi”
SPIEGEL: Thưa ông
Todd, ngay giữa Chiến tranh Lạnh, trong thời kỳ của Brezhnev, ông đã tiên đoán
sự sụp đổ của chế độ Xô viết. Năm 2002,
ông miêu tả sự xói mòn kinh tế và uy thế của Hoa Kỳ, một siêu cường thế giới.
Và, cách đây bốn năm, ông và đồng nghiệp của ông, Youssef Courbage đã tiên đoán
cuộc cách mạng không tránh khỏi trong thế giới A Rập. Phải chăng ông nhìn thấu
tương lai?
Todd: Một học giả như
một người thày bói – một ý tưởng hấp dẫn. Nhưng Courbage và tôi chỉ phân tích
những nguyên nhân để một cuộc cách mạng có thể xảy ra – hay ta hãy nói rất dễ xảy
ra – trong thế giới A Rập, một biến động cũng đã mở ra như một cuộc cách mạng từ
từ. Công trình của chúng tôi cũng giống như công trình của những nhà địa chất về
những dấu hiệu của một trận động đất sắp xảy ra hoặc một núi lửa sắp phun.
Nhưng chính xác bao giờ thì nó xảy ra, hình thức của nó và tính nghiêm trọng của
nó – những sự việc như thế không thể nói trước một cách chính xác.
SPIEGEL: Những phép tính xác suất của ông dựa trên những chỉ báo
nào?
Todd: Chủ yếu trên ba
nhân tố: sự tăng nhanh số người biết đọc biết viết, đặc biệt trong phụ nữ, sự
giảm nhanh tỉ lệ sinh đẻ, và sự giảm nhiều trong cái tập quán nội giao phổ biến,
hay sự kết hôn giữa những anh chị em con chú bác cô cậu ruột. Điều đó cho thấy
các xã hội A Rập đang trên con đường tiến tới hiện đại hóa văn hóa và tinh thần,
trong tiến trình ấy cá nhân trở thành quan trọng hơn như một thực thể tự trị.
SPIEGEL: Và hậu quả là gì?
Todd: Đó là: cuộc tiến
triển này kết thúc với sự biến chuyển của một chế độ chính trị, một làn sóng
đang lan rộng của dân chủ hóa và biến cải thần dân thành công dân. Mặc dầu chuyện
này đi theo một xu hướng toàn cầu, nó có thể cần một ít thời gian.
SPIEGEL: Ấn tượng mà chúng tôi đang có lúc này là sự tăng tốc
nghẹt thở của lịch sử, tương tự như sự sập đổ bức tường Berlin năm 1989.
Todd:
Tại thời điểm này, không ai có thể nói các phong trào giải phóng trong những nước
này sẽ biến thành cái gì. Các cuộc cách mạng thường kết thúc như một cái gì
khác với những gì những người ủng hộ chúng tuyên bố lúc ban đầu. Các nền dân chủ
là những chế độ mỏng manh đòi hỏi có những gốc rễ lịch sử sâu xa. Cần đến cả một
thế kỷ từ cuộc Cách mạng Pháp năm 1789 đến hình thức dân chủ của chính phủ, dưới
dạng nền Đệ Tam Cộng hòa, cuối cùng hình thành sau khi Pháp thua cuộc chiến
tranh chống Đức năm 1871. Trong thời kỳ chuyển tiếp, có Napoleon, sự phục hồi nền
quân chủ, và Đệ Nhị Đế chế dưới triều Napoleon III, "Napoleon bé tí"
như Victor Hugo đã nhạo báng.
SPIEGEL: Những khủng hoảng ở thời kỳ quá độ tiếp
theo sau các cuộc cách mạng có thể làm lợi cho những người Islamist không?
Todd:
Điều này không thể loại trừ hoàn toàn khi chính quyền nằm trong các đường phố.
Hỗn loạn tạo ra mong muốn chuyển sang ổn định, theo nghĩa một phương hướng.
Nhưng tôi không tin điều đó sẽ xảy ra. Những người Islamist không đóng vai trò
gì ở Tunisia, còn ở Ai Cập thì tiến trình các sự kiện dường như đã làm cho
Huynh đệ Hồi giáo bị bất ngờ. Những người Islamist lúc này đang cố gắng tổ chức
như những chính đảng trong một hệ thống đa nguyên. Những phong trào tự do này
không chống phương Tây. Ngược lại, ở Libya, những người nổi dậy đã kêu gọi trợ
gíup nhiều hơn từ NATO. Cuộc cách mạng A
Rập đã bỏ qua một bên cái khuôn sáo của sự độc tôn văn hóa và tôn giáo tưởng chừng
làm cho đạo Hồi xung khắc với dân chủ, và tưởng chừng số phận dành riêng cho
người Hồi giáo là phải bị thống trị bởi
may lắm là những nhà độc tài sáng sủa.
SPIEGEL: Điều dễ nhận thấy là ông đã hạ thấp tầm quan trọng cuả
nhân tố tôn giáo và kinh tế trong cách diễn giải của ông. Điều gì làm ông tin
chắc như thế?
Todd: Tôi không coi nhẹ
nó, tôi chỉ nghĩ nó là thứ yếu. Tôi là một nhà thống kê, một "học giả
cosin," nếu bạn thấy cách nói này là ngộ nghĩnh. Điều kiện cho mọi cuộc hiện
đại hóa là hiện đại hóa dân số. Nó đi đôi với sự suy giảm lòng mộ đạo qua trải
nghiệm và huân tập. Chúng ta đã trải nghiệm một sự phi Hồi giáo hóa của các xã
hội A Rập, một sự làm sáng tỏ thế giới, như cách gọi của Max Weber, và nó sẽ tiếp
tục không tránh khỏi, đúng như quá trình phi Thiên chúa giáo hóa ở châu Âu.
SPIEGEL: Nhưng giả thuyết của ông có mâu thuẫn. Phụ nữ
không bỏ khăn trùm đầu, và chủ nghĩa khủng
bố Islamist chưa hề bị đánh bại bởi bất kỳ sự suy diễn nào.
Todd: Những sự rối loạn
của Islamist là bạn đường muôn thuở của sự mất phương hướng đặc trưng cho mọi
cuộc biến động. Nhưng theo quy luật của lịch sử nói rằng tiến bộ về giáo dục và
giảm tỉ lệ sinh sản là những dấu chỉ của tình trạng duy lý hóa và thế tục hóa
đang lớn lên, chủ nghĩa Islamism là phản ứng tự vệ nhất thời đối với cú sốc của
hiện đại hóa và không hề là điểm hội tụ ảo của lịch sử. Đối với thế giới Hồi
giáo, điểm ảo là phổ biến hơn nhiều so với điều người ta sẵn sàng thừa nhận.
Khái niệm về một 'đạo Hồi bất biến' và 'bản chất Hồi giáo' đơn thuần là cấu
trúc tri thức của Phương Tây. Con đường mòn mà nhiều văn hóa và tôn giáo khác
nhau của thế giới đi qua đang hội tụ về một cuộc chạm trán hơn là một trận đánh
mà Samuel Huntington đã tin rằng sẽ xảy ra.
SPIEGEL: Osama bin Laden tìm cách dẫn đến cuộc đụng độ của các nền
văn minh bằng những hành động khủng bố được dàn dựng ngoạn mục. Cái chết của
ông ta có đánh dấu sự kết liễu của al-Qaida về mặt chính trị không?
Todd: Bóng ma của ông
ta có thể vẫn tiếp tục làm mê hoặc mọi người. Những người ngưỡng mộ ông ta có
thể giữ ngọn lửa ấy cháy mãi. Nhưng hành động tàn bạo khủng khiếp mà Hoa Kỳ tiến
hành thật sự đã đến vào thời khắc xấu nhất có thể có. Al- Qaida đã chết về mặt
chính trị trước cái chết của bin Laden. Tổ chức này chưa bao giờ trở thành một
phong trào quần chúng. Nó chỉ tồn tại thông qua sự tuyên truyền của hành động ấy,
giống như những kẻ vô chính phủ châu Âu thế kỷ 19. Bin Laden có chung với họ
cái tầm cỡ lãng mạn của kẻ anh hùng cô độc, trả thù việc bị đẩy ra ngoài xã hội
SPIEGEL: Ông ta cũng kêu gọi lật đổ các nhà độc tài A Rập.
Todd: Các phong trào
quần chúng của Mùa Xuân A Rập không có gì chung với những cái nhìn hoang tưởng
như Liên A Rập (pan-Arabism) hay Liên Hồi giáo (pan- Islamist). Ảo tưởng
cơ bản vốn nằm trong cách nhìn những cuộc
khủng hoảng tư tưởng và tôn giáo trong các nước A Rập như một hiện tượng thụt
lùi. Ngược lại, đây là những cuộc khủng hoảng của một quá trình hiện đại hóa
làm mất ổn định các chế độ. Cái sự kiện cuộc rối loạn trong khu vực này trùng hợp
với sự tiến lên của trào lưu chính thống là một hiện tượng cổ điển. Nghi ngờ và
cuồng tín là hai mặt của cùng một diễn biến. Có thể thấy các ví dụ ngay trong lịch
sử tri thức châu Âu. Descartes, người sáng lập của thuyết hoài nghi có phương
pháp, tự cho mình một nhiệm vụ khẩn cấp là chứng minh sự tồn tại của Thượng Đế.
Còn Pascal, nhà toán học và vật lý, nhận thức một nhu cầu tôn giáo mạnh mẽ đến
nỗi ông đã làm một cuộc cá cược vừa nổi tiếng vừa đáng ngờ, lập luận rằng bằng
cách tin vào Thượng Đế người ta có thể không mất gì mà lại được tất cả. Ông trở
thành một tín đồ Giăngxênit, một dạng của đạo Cơ đốc ở thời ông.
Thất nghiệp và thất vọng
xã hội xúi giục bạo động
SPIEGEL: Giàu nghèo có phải vấn đề cốt tử không? Tunisia, Syria,
Egypt và Yemen đâu có những thu nhập béo bở về dầu mỏ.
Todd: Tất nhiên, người
ta có thể làm cho nhân dân bớt giận bằng bánh mì và tiền, nhưng chỉ nhất thời
thôi. Các cuộc cách mạng thường nổ ra trong những giai đoạn tăng trưởng về văn
hóa và suy sụp về kinh tế. Đối với tôi, một nhà nhân khẩu học, biến số chủ chốt
không phải là thu nhập tính theo đầu người mà là tỉ lệ người biết chữ. Nhà sử học
Anh Lawrence Stone đã chỉ ra mối quan hệ này trong nghiên cứu của ông về cách mạng
Anh ở các thế kỷ 16 và 17. Ông thấy các ngưỡng tới hạn này là 40 và 60 phần
trăm.
SPIEGEL: Vâng, đa số
thanh niên A Rập bây giờ biết đọc biết viết, nhưng tỉ lệ sinh đẻ thật sự phát
triển như thế nào? Dân số các nước A Rập là cực kỳ trẻ, một nửa số công dân dưới
tuổi 25.
Todd: Vâng, nhưng đó là vì thế hệ trước có quá nhiều
con. Tuy nhiên trong khoảng thời gian đó, tỉ lệ sinh đẻ đã giảm đột ngột trong
một số trường hợp. Nó đã giảm đi một nửa
trong thế giới A Rập chỉ trong một thế hệ, từ 7,5 đứa con trên một phụ nữ vào
năm 1975 xuống 3,5 vào năm 2005. Tỉ lệ sinh sản trong giới phụ nữ có học chỉ dưới
2,1, mức cần thiết để duy trì dân số. Tunisia nay có tỉ lệ sinh sản ngang với
Pháp. Ở Morocco, Algeria, Libya và Egypt, nó đã giảm xuống dưới ngưỡng kỳ diệu
là ba trẻ em trên một bà mẹ. Điều đó có nghĩa là những người trẻ trưởng thành
chiếm đa số trong dân cư và, không giống như cha mẹ họ, họ biết đọc biết viết,
và họ cũng áp dụng các biện pháp tránh thai. Nhưng họ chịu thất nghiệp và thất
vọng về xã hội. Không đáng ngạc nhiên là những cuộc nổi dậy là không tránh khỏi
ở phần này của thế giới.
SPIEGEL: Đó có phải là
lý do tuổi trẻ đang đưa cách mạng vào các đường phố, trong khi thiếu những nhà
lãnh đạo và nhà tư tưởng lớn tuổi hơn có tầm nhìn xa trông rộng được thừa nhận?
Todd: Cái đó không có
gì đáng ngạc nhiên. Những người trẻ tuổi lãnh đạo các cuộc cách mạng ở Anh và
Pháp. Robespierre mới có 31 tuổi vào năm
1789, và ông 36 tuổi khi bị đưa lên máy chém. Đối thủ của ông là Danton và đồng
minh của ông là Saint-Just cũng là những người trẻ, một người mới ngoài 30 và
người kia giữa lứa tuổi 20. Mặc dầu Lenin già hơn, những đội quân xung kích
Bolshevik gồm toàn những người trẻ cũng như lực lượng xung kích của Đức Quốc
Xã. Chính những người trẻ đã đối đầu với xe tăng Liên xô ở Budapest năm 1956.
Cách giải thích rất tầm thường: người trẻ có sức mạnh hơn và có nhiều cái để được
hơn.
SPIEGEL: Tại sao những giá trị của thời hiện đại đến được thế giới
Hồi giáo lại mất một thời gian dài lâu đến thể? Dầu sao, thời hoàng kim của nền
văn minh A Rập kết thúc vào thế kỷ 13.
Todd: Có một cách giải
thích đơn giản, vừa có lợi mà cũng vừa có thể áp dụng cho Bắc Ấn Độ và Trung
Hoa, tức là cho ba cộng đồng tôn giáo hoàn toàn khác nhau: đạo Hồi, đạo Hindu
và đạo Khổng. Đó là vấn đề cấu trúc của gia đình truyền thống trong các địa
phương này, với sự hạ thấp phẩm giá của nó và với sự tước quyền bầu cử của phụ
nữ. Và ở Mesopotamia chẳng hạn, nó mở rộng đến tận thế giới tiền Hồi giáo.
Mohamed, người sáng lập đạo Hồi đã cho phụ nữ nhiều quyền hơn nhiều so với họ
đã có trong hầu hết các xã hội A Rập cho đến ngày nay.
SPIEGEL: Điều đó có nghĩa là những người A Rập tuân theo những lề
luật địa phương cũ và mở rộng chúng ra khắp cả Trung Đông?
Todd: Đúng. Chế độ phụ
hệ patrilocal[3] trong đó chỉ có quyền thừa
kế của nam giới được coi là có hiệu lực, và những đôi vợ chồng mới cưới, tốt nhất
là các anh chị em họ, trong một gia đinh A Rập lý tưởng sống dưới mái nhà và dưới
quyền người cha, bị hạn chế mọi tiến bộ về mặt xã hội. Việc tước quyền công dân
của phụ nữ đã lấy đi của họ cái khả năng nuôi dạy con cái một cách tiến bộ,
năng động. Xã hội bị xơ cứng và theo một nghĩa nào đó, đang ngủ gà ngủ gật. Các
năng lực của cá nhân không thể phát triển. Thành tựu tư sản về hôn nhân vì tình
yêu, và tự do lựa chọn bạn đời đã thay thế kiểu môn đăng hộ đối ở châu Âu thế kỷ
19 và làm tăng khao khát tự do.
SPIEGEL: Việc giải phóng phụ nữ có phải là điều kiện tiên quyết
cho hiện đại hóa trong thế giới A Rập không?
Todd: Nó hoàn toàn dao
động. Cuộc tranh luận xung quanh chiếc khăn trùm đầu đã đi không đúng trọng
tâm. Số lượng cuộc hôn nhân giữa anh em họ đã giảm ngoạn mục như tỉ lệ sinh đẻ, bằng cách đó đẩy
bật một rào chắn. Cá nhân tự do hay công dân tích cực có thể đi vào đấu trường
xã hội. Khi hơn 90% thanh niên biết đọc biết viết và có chút ít học vấn, thì
không có chế độ độc tài cổ truyền nào có thể kéo dài. Bạn có nhận thấy bao
nhiêu phụ nữ đi tuần hành trong các cuộc biểu tình? Ngay cả ở Yemen, nước lạc hậu
nhất trong thế giới A Rập, cũng có hàng ngàn phụ nữ tham gia biểu tình.
SPIEGEL: Gia đình là lĩnh vực riêng tư nhất. Tại sao những thay
đổi trong cấu trúc của nó nhất thiết phải
lan rộng sang lĩnh vực chính trị?
Todd: Mối quan hệ giữa
những kẻ ở trên đỉnh và những kẻ ở dưới đáy đang thay đổi. Khi quyền lực của
người cha bắt đầu suy giảm, thì quyền lực chính trị nói chung cũng sụp đổ. Đó là bởi vì gia đình mở rộng của chế độ phụ
hệ, nội giao đã tái tạo bên trong tầng lớp lãnh đạo của đất nước. Tộc trưởng
trong gia đình như nguyên thủ nhà nước đưa các con mình và những họ hàng là đàn
ông vào các vị trí quyền lực. Các triều đại chính trị phát triển, như trong trường
hợp Assad cha và Assad con ở Syria. Tham nhũng nảy nở bởi vì phe cánh điều hành
mọi việc nhằm lợi riêng cho họ. Nhà nước tất nhiên được tư nhân hóa thành doanh
nghiệp của gia đình. Chính quyền của sự tuân phục dựa trên một kết hợp của lòng
trung thành, đàn áp và khoa kinh tế chính trị.
Mùa Xuân A Rập giống với "Mùa Xuân châu Âu 1848"
hơn là sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản.
SPIEGEL: Khoa thống kê làm bộc lộ những khác biệt đáng kể.
Tunisia không thể so sánh với Yemen. Làm thế nào mà tia lửa cách mạng vẫn có thể
bay tới được Yemen?
Todd: Còn có một tiền lệ của chuyện này trong lịch sử châu Âu.
SPIEGEL: Ông muốn nói cuộc cách mạng 1849 -1849?
Todd: Vâng. Mùa Xuân A
Rập giống với Mùa Xuân Châu Âu 1848 hơn nhiều so với mùa Thu 1989, khi chủ
nghĩa cộng sản sụp đổ. Tia lửa ban đầu ở Pháp đã châm ngòi náo loạn ở Phổ,
Saxony, Bavaria, Áo, Ý, Tây Ban Nha và Romania.
– một phản ứng dây chuyền kinh điển, mặc dầu có những khác biệt rất lón
về địa phương.
SPIEGEL: Nếu thế giới
A Rập bây giờ bước vào thời hiện đại, liệu những giá trị phổ quát của Phương
Tây – như tự do, bình đẳng, nhân quyền và phẩm giá con người – có dứt khoát thắng
lợi không?
Todd: Tôi đã thận trọng
về phương diện này. Các phong trào dân chủ có thể có những hình thức rất khác
nhau, như chúng ta có thể thấy với tiền lệ của Đông Âu sau năm 1990. (Thủ tướng
Nga Vladimir) Putin chắc chắn là được sự ủng hộ của đa số nhân dân Nga, nhưng
điều đó có làm cho Nước Nga thành một nền dân chủ không tì vết không?
SPIEGEL: Ông vạch biên giới của Phương Tây đến đâu?
Todd: Thật ra, chi có Anh, Pháp, và Mỹ, theo thứ tự lịch sử, là
cốt lõi của Phương Tây. Nhưng không có Đức.
SPIEGEL: Ông nói nghiêm túc đấy chứ?
Todd: Ồ, thật vui khi chọc tức được một đại diện của tờ tạp chí
lớn của Đức. Tôi đang nói rằng Đức không đóng góp gì cho phong trào dân chủ tự
do ở châu Âu.
SPIEGEL: Thế còn
Festival Hambach năm 1832, cuộc Cách mạng tháng Ba năm 1848, ở Nhà thờ St. Paul
ở Frankfurt, cuộc Cách mạng tháng Mười Một năm 1918, việc thành lập Cộng hòa
Liên bang Đức năm 1949 việc sáp nhập của (cựu Thủ tướng Konrad) Adeanuer với
Phương Tây và việc mở thông Bức tường Berlin năm 1989 do nhân dân tiến hành một
cách hòa bình?
Todd: Vâng vâng, lịch
sử sau chiến tranh rất hay và rất tốt, nhưng nó phải được Đồng minh đưa vào vận
động. Tất cả những điều xảy ra trước đó đều hỏng. Hệ thống chính quyền chuyên
chế vẫn thắng thế trong một thời gian dài, trong khi các điều kiện dân chủ đã
chiếm ưu thế ở Anh, Mỹ và Pháp từ lâu. Nước Đức đã tạo ra hai hệ tư tưởng toàn
trị tồi tệ nhất của thế kỷ 20. Ngay cả các nhà triết học vĩ đại nhất, như Kant
và Hegel, cũng không giống như David Hume ở Anh hay Voltaire ở Pháp, không báo
trước chủ nghĩa tự do chính trị. Không, đóng góp to lớn của Đức cho lịch sử văn
hóa châu Âu là chuyện hoàn toàn khác.
SPIEGEL: Và bây giờ ông sắp nói một cái gì dễ chịu chứ?
Todd: Phong trào Cải
cách, và cùng với nó, sự củng cố cá nhân, được chống đỡ bằng tri thức của nó – việc mở rộng đọc thông qua in ấn – đó là đóng góp của Đức. Cuộc tranh luận về
Cải cách được phát động theo cách của báo chí, với những cuốn sách mỏng
(pamphlet) và những tờ rơi. Việc phổ cập
biết chữ cho quần chúng được sáng tạo ra ở Đức. Phổ và ngay cả các nhà nước
Thiên chúa giáo đã có tỉ lệ biết chữ cao hơn Pháp từ lâu. Phong trào biết chữ đến
Pháp từ phía Đông, tức là từ Đức. Đức là một dân tộc có giáo dục và là một quốc
gia lập hiến từ lâu trước khi nó trở thành một nền dân chủ. Nhưng Martin Luther
cũng đã chứng minh rằng những cải cách tôn giáo không hề đòi hỏi sự hậu thuẫn của
một tinh thần của chủ nghĩa tự do.
SPIEGEL: Nhưng Sonderweg, hay "con đường đặc biệt" của
Đức, nay vẫn chưa kết thúc
Todd: Đúng, tôi nghĩ rằng
người Đức vẫn còn cảm thấy một nỗi sợ bí ẩn và đồng thời hơi tự yêu mình, như
thể họ có cảm giác rằng họ không hoàn toàn là một phần của Phương Tây. Tôi thấy
dường như hình thức chính quyền ưa thích của họ là liên minh lớn, không có những
thay đổi độ ngột về chính quyền như xảy ra ở
Pháp và các nước Anglo-Saxon. Có lẽ Đức thích giống như một nước Thụy Sĩ
lớn hay một Thụy Điển lớn, một nền dân chủ nhất trí trong đó các phe phái tư tưởng
đi đến chỗ tương đồng với nhau và gia đinh chính trị mở rộng trong chính phủ
chăm lo cho mọi việc.
SPIEGEL: Điều ấy có gì sai?
Todd: Không có gì sai.
Sự khác nhau về văn hóa giữa Đức và Pháp không nên bị chôn vùi dưới những lời
tuyên bố hữu nghị. Pháp cá nhân chủ nghĩa và quân bình chủ nghĩa, ít ra là hơn
Đức nhiều; ở Đức ngày nay truyền thống gia đình bất bình đẳng, có tính bộ lạc độc
đoán vẫn còn có ảnh hường, như trong cuộc tranh luận về hình ảnh đúng đắn của
người mẹ. Có lẽ điều đó cũng giải thích tại sao Đức, mặc dù tỉ lệ sinh sản thê
thảm của mình, lại có nhiều rắc rối đến thế trong vấn đề nhập cư, tuy rằng nó
vưọt xa Pháp về các khả năng kỹ thuật và công nghiệp.
SPIEGEL: Điều đó cỏ nghĩa là tình hữu nghị Đức-Pháp chỉ là một ảo
tưởng?
Todd: Không, nhưng mối
quan hệ này chắc chắn được hình thành bởi một sự kình địch không nói ra. Tuy
nhiên, nếu Liên Hiệp châu Âu thừa nhận tính đa dạng của nó, thậm chí với những
khác nhau về nhân loại học, thay vì cố ép mọi người vào một cái khuôn chung với
những bùa chú giả hiệu của một nền văn minh châu Âu chung, thì châu Âu cũng sẽ
có thể đối xử với chủ nghĩa đa nguyên văn hóa trên thế giới một cách duy lý và
khai sáng. Tôi không chắc Mỹ có thể làm được điều đó.
SPIEGEL: Cảm ơn mơxiơ Todd về cuộc phỏng vấn này
Cuộc phỏng vấn được thực
hiện bởi Romain Leick, Christopher Sultan dịch từ tiếng Đức
9. Những bước đi ngập
ngừng đến dân chủ
Cuộc cách mạng A Rập bị kẹt giữa hồ hởi và
thất vọng
Bộ Biên tập
SPIEGEL
10/08/2011
http://www.spiegel.de/international/world/0,1518,779071,00.html
REUTERS
Hơn nửa năm sau khi bắt đầu cuộc Cách mạng A Rập, các phong trào ngả về dân
chủ trong nhiều nước có vẻ đã ngưng lại. Những tên bạo chúa ở Syria và Libya
đang đàn áp khốc liệt những người nổi dậy trong nước chúng, trong khi Yemen có
nguy cơ trượt vào hỗn loạn. Phiên tòa xử Hosni Mubarak ở Cairo liệu có đem lại
một sức đẩy mới cho những người chống đối?
Con lừa của Gilamo là một dấu hiệu
vui về hy vọng ở Hama. Ông chủ của con vật này đã nhấc nó đặt lên chiếc bệ
không trước đây đã từng đỡ một pho tượng của cựu Tổng thống Syria Hafez Assad
cho đến hôm 10 tháng Sáu. Binh lính của chế độ đã rút khỏi thành phố miền tây
Syria này. Chính nơi đây năm 1982 Hafez Assad, cha của tổng thống hiện tại
Bashar Assad đã nêu một tấm gương man rợ khi ông ta nghiền nát một cuộc nổi dậy
do tổ chức Huynh đệ Hồi giáo dẫn đầu. Khoảng 20.000 người đã chết trong cuộc
tàn sát ấy.
Thật là trớ trêu chính trong tuần
lễ tháng Sáu ấy, quân đội chính phủ đã rút khỏi Hama, một thành phố đã bị đốt
cháy thành ký ức tập thể của xã hội đa sắc tộc Syria như một biểu tượng của khả
năng phạm những tội ác hung tàn của chế độ. Thành phố này, mà những người con
mang những cái tên của cha chú bị giết trong cuộc thảm sát năm 1982, đã giành lại
số phận của nó vào trong tay chính nó.
"Chúng tôi đã chiến thắng nỗi
sợ hãi của mình," một người tham gia những cuộc biểu tình diễn ra mỗi buổi
tối trên Quảng trường Assi ở trung tâm Hama – đã được đổi tên thành "Quảng
trường Tử đạo" – nói. Từ ba tháng trước các đơn vị tinh nhuệ của chính phủ
đã nghiền nát mọi cuộc tuần hành chống đối bằng súng đạn, giết chết hàng chục
và bắt hàng trăm người biểu tình. Bỗng nhiên quân đội biến đi, nhưng chỉ sau
khi đã dỡ bức tượng của Assad cha và mang đi theo họ, nhờ vậy có chỗ cho con lừa
Gilamo được nâng đặt lên bệ thay thế trong tiếng hò reo tán thưởng khản cổ của
những người đứng xem. "Chúng ta đã đánh đổ Assad," họ hô lên,"
và đặt một con lừa lên thế chỗ hắn!"
Bản thân thành phố này đã bị bao
vây sáu tuần lễ. Giáo viên , người quét rác và cảnh sát giao thông đã trở lại
làm việc. Một ủy ban gồm các bác sĩ, luật sư và kỹ sư, do thầy tế Mustafa Abdul
Rahman 60 tuổi dẫn đầu, đã thương lượng với chính phủ. "Hama đã được tự do
và sẽ mãi mãi tự do," đám đông hô to khi mỗi buổi tối nó lại lớn thêm lên,
hưởng niềm vui đơn giản có thể đi ra đường mà không sợ hãi.
Hama đã tự do, nhưng rồi tự do của
nó chẳng sống được lâu.
Thú tội, nếu không thì bị đưa đi
Tổng thống ra lệnh cho xe tăng của
ông ta trở lại thành phố này vào cuối tháng Bẩy theo bước người cha của ông
phát động chiến tranh chống Hama. Khoảng 150 ngưởi bị trúng lựu đạn và bị giết
bởi bọn lính bắn tỉa.
Xe tăng đang chặn lối vào Bệnh viện
Trung tâm Hunrani, do đó không thể đưa những người bị thương vào trong được. Người của cục tình
báo rà soát các bệnh viện, tại đó họ ra cho những người bị thương một lựa chọn:
hoặc ký giấy thú nhận rằng họ là khủng bố hoặc bị đưa đi tức khắc. Không ai biết
những người bị thương bị đưa đi đâu, nhưng rõ ràng không có ai quay trở lại bệnh
viện.
Bọn kiêu binh của chế độ, dân
quân và côn đồ đã hoành hành khắp đất nước, chỉ trừ những khu trung tâm thương
mại ở hai thành phố chính của Syria, Damascus và Aleppo. Các bác sĩ chữa trị những
người bị thương và dược sĩ đưa thuốc cho họ đã bị bắt. Ở Daraa miền nam và
Idlib miền tây bắc, các lực lượng của chính phủ thậm chí đã tràn vào các tiệm
in và lôi đi những người đã in thông cáo về cái chết của những nạn nhân. Cho đến
nay, những người chống đối khẳng định, 1.800 người đã bị giết và 12.000 người bị
bắt trong khi 3000 đã biến mất không để
lại dấu vết.
Không ai có thể thẩm tra lại những
con số này. Nhưng điều đó không thật sự quan trọng. Hàng ngàn đoạn video ngắn,
mờ đã được post lên YouTube, chứng thực những cái chết, cảnh những người chống
đối, tiếng rên la của những người bị thương, những phát đạn từ binh lính bắn ra
và cảnh khóc than của những bà mẹ bên xác chết của con mình.
Liều chết
Từ tháng Ba người dân Syria đã đổ
ra các đường phố, tại đó họ phải liều đương đầu với dùi cui hoặc có thể bị bắn
chết. Cho đến nay, họ vẫn kiên trì phản đối vào các chiều thứ Sáu sau khi dự lễ
cầu nguyện chung ở các thánh đường Hồi giáo. Những người chết được đưa đến
nghĩa trang vào thứ Bảy; những ngày còn
lại trong tuần tương đối yên tĩnh – cho đến thứ Sáu tuần sau. Nhưng vào tháng
này điều ấy có khả năng thay đổi. Trong dịp lễ Ramadan, mọi người tập hợp hằng
ngày sau khi đến nhà thờ để ăn chay. Thời gian này họ có thể đổ ra các đường phố
vào mọi buổi tối.
Đây là nối lo của chế độ. Nó cũng
giải thích cuộc tấn công hiện nay vào Hama, qua đó Assad ngày nay đã vứt bỏ
chút vẻ ngoài còn sót lại tỏ ra nhân đạo hơn cha của ông ta. Đồng thời hành vi
của ông ta đang trở nên ngày càng kỳ quái hơn. Ông ta đã tự thăng chức cho mình
lên hàng đại nguyên soái và thường xuyên nhắc tới "những âm mưu" mà
Syria rõ ràng đã "miễn dịch."
Hôm thứ Tư các nhà hoạt động đã
báo cáo rằng xe tăng đã tiến vào các thành phố Taftanaz, Sarmin, và
Binnish gần biên giới Thổ Nhĩ Kỳ, như một
phần của cố gắng đè bẹp các cuộc biểu tình. Hôm thứ Tư, hãng tin AP cũng tường
thuật rằng Hama có vẻ đã nằm dưới sự kiểm soát hoàn toàn của chính phủ.
Bộ máy an ninh của Assad vẫn còn
chưa được dùng đến, ngoài mấy trường hợp lẻ tẻ với những cá nhân binh lính hoặc
những đơn vị nhỏ đào ngũ. Quân đội vẫn kiểm soát hoàn toàn đất nước, tuy nhiên
nó không nghiền nát được các cuộc nổi dậy. Syria đang kẹt trong một thế vô cùng
bí.
Hoàn toàn không thể đoán trước
Chế độ Damascus còn kéo dài được
bao lâu nữa? Liệu Assad có sẵn sàng tàn phá đất nước của ông ta, như Moammar
Gadhafi đã nói ông ta sẽ làm với Libya không? Hay là cả hai bạo chúa này sẽ chịu
chung số phận với nguyên Tổng thống Ai Cập Hosni Mubarack?
Nửa năm sau khi người Ai Cập buộc
ông ta từ chức, vị tổng thống đã có thời rất mạnh đã phải ra trước tòa vào hôm
thứ Tư tuần trước. Chỉ cách đây mấy tuần, ngay cả những người lạc quan nhất ở
Cairo vẫn cho rằng đó là điều không thể thực hiện. Nhưng nay có tin đồn rằng chủ
tịch hội đồng quân quản, Thống chế Mohammed Hussein Tantawi, có thể sẽ bị gọi
ra để làm chứng chống lại tổng tư lệnh cũ của ông.
Nếu có một điều mà những sự kiện
trong mấy tháng gần đây chứng tỏ, thì đó là: cuộc cách mạng A Rập bắt đầu bằng
việc hy sinh của Mohamed Bouazizi, một người thất nghiệp bán hàng rong rau quả ở
Tunsia, là hoàn toàn không thể đoán trước.
Phần 2: Xem Lịch sử được Làm ra trên Truyền hình
Liệu phiên tòa lịch sử đánh dấu lần
đầu tiên một kẻ chuyên quyền A Rập bị đưa ra xử trước một tòa án bình thường của
chính đất nước ông ta, có làm nên một sức đẩy mới cho phong trào dân chủ trong
khu vực hay không? Những cảnh từ Học viện Cảnh sát Cairo, nơi Mubarack, nằm
trên giường bệnh viện, được đẩy vào một cái cũi được dựng sẵn trong phòng xử
án, chắc hẳn là "kịch" lắm. Hầu như toàn bộ Trung Đông đã xem phiên
tòa phát trên truyền hình.
Ngược lại, truyền hình nhà nước
Syria, dường như không quan tâm đến phiên tòa và cho chiếu phim hoạt hình để
thay thế. Al-Baath, tờ báo của đảng, chỉ chạy một báo cáo ngắn trong ngày đầu
của phiên tòa. Đài tuyên truyền của Gadhafi Al-Jamahiriya, chế
giễu việc mở phiên tòa và nhận xét rằng người Ai Cập sống dưới thời Mubarack khá giả hơn bây giờ.
Hình ảnh bị cáo trong bộ quần áo
trắng, màu vô tội, đã là một biểu tượng của cách mạng. Trong vòng mấy phút, những
người Ai Cập trẻ tuổi đã góp những hình ảnh lên Facebook và Twitter. Và trong
vòng mấy giờ, những lời của Mubarack, "Tôi hoàn toàn phủ nhận những lời buộc
tội," đã được dùng làm chuông điện thoại di động một cách phổ biến.
Cựu Tổng thống Ai Cập đang bị qui trách nhiệm
về cái chết của 846 người, và ông ta bị kết tội đã ra lệnh cho các lực lượng của
mình bắn vào những người biểu tình. Một lời kết tội khác phản ánh thái độ thân
Palestine đang lớn lên ở Ai Cập: người ta nói Mubarack đã đảm bảo cho Israel được
cung cấp khí tự nhiên của Ai Cập với giá rẻ, dẫn đến chính phủ Ai Cập bị lỗ mất
200 triệu € (715 triệu$)
Không có bạo chúa nào được an toàn
Dù hình phạt nào đang chờ đợi vị
tổng thống bị lật đổ vào cuối phiên tòa, có một việc mà ngày khai mạc phiên tòa
3 tháng Tám đã cho thế giới thấy rõ: không có kẻ chuyên quyền nào cảm thấy chắc
chắn rằng một ngày nào đó y không bị gọi ra trước tòa. Phiên tòa này cũng củng
cố vai trò lãnh đạo của Ai Cập trong thế giới A Rập và công nhận dứt khoát vị
trí của nó như trung tâm của phong trào cách mạng ở Trung Đông.
Nhưng niềm vui về phiên tòa không
che dấu được cái sự thật là lực lượng đối lập đang bị chia rẽ. Xung đột quyền lợi
của các nhóm riêng rẽ đang tăng lên rõ rệt từ tuần này sang tuần khác. Hơn 60 đảng
đã đăng ký chạy đua trong cuộc bầu cử quốc hội, dự định vào tháng Mười Một. Cuộc
tranh đua đang gay gắt, đặc biệt là trong phe tự do.
Những người Islamist được lợi từ
sự gãy vỡ này. Vào hôm thứ sáu trước tuần vừa rồi, mười nghìn người ủng hộ
Huynh Đệ Hồi giáo và các phong trào Hồi giáo khác đã tập hợp trên Quảng trường
Tahrir ở Cairo. Ban đầu là một cuộc tập hợp chung những người không theo đạo và
các phong trào tôn giáo, sau đó biến thành cuộc biểu dương sức mạnh của những kẻ
cực đoan.
Ngay cả Huynh Đệ Hồi giáo nay
cũng được xem như những người ôn hòa. Mặc dầu họ muốn thấy tôn giáo chi phối
chính trị, họ cũng khẳng định là tự do. Thậm chí họ đã chọn một cách phóng
khoáng một người Cơ đốc giáo, Rafik Habib, làm phó chủ tịch đảng mới thành lập
của họ, Đảng Tự do và Công lý.
Ngược lại, những người cách mạng
Ai Cập lại cực kỳ khó chịu về những người Salafists đang ngày càng trở nên tự
tin. Phong trào này, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của
mô hình tôn giáo cực đoan của A Rập Saudi và được báo cáo là đã nhận tài
trợ từ nước này, muốn cuộc sống hằng ngày của Ai Cập giống như các công xã
nguyên thủy đã tồn tại vào thời của Tiên tri Muhammad. "Chúng ta là đội
quân của Chúa, và chúng ta đến đây để thực thi ý nguyện của Chúa trên trái đất,"
một người phát ngôn nói thế trên Quảng trường Tahrir. Những lá cờ A Rập Saudi
bay bên cạnh những lá cờ Ai Cập, và một số người dương cao những tấm ảnh lớn của
cố lãnh tụ al-Qaida Osama bin Laden.
Có những người sợ rằng Mubarack bị
lật đổ cuối cùng lại được chứng minh là đúng. Ông ta tìm kiếm tính hợp pháp của
chế độ đàn áp của ông ta qua câu nói: "Hoặc là tôi, hoặc là loạn."
Những người nổi loạn ở Lybia chia rẽ
Trong khi đó thì Libya đã chìm trong hỗn loạn.
Cách mạng Libya bắt đầu bằng những cuộc biểu tình vào giữa tháng Hai, sau ít
ngày biến thành những cuộc nổi dậy vũ trang, và nhà độc tài Moammar Gadhafi từ
bấy đến giờ vẫn cố gắng để nghiền nát. Binh lính của ông ta đã phạm những tội
ác chiến tranh, đã bắn và dội bom vào dân thường trong các thành phố miền Biển
Misrata và Zawiyah. Rất có thể sau đó sẽ xảy ra một cuộc tàn sát trong pháo đài
Benghazi nếu trong ngày 19 tháng Ba các phản lực cơ chiến đấu của Pháp không kịp
thời can thiệp vào phút chót.
Có lý do chính đáng để NATO can
thiệp quân sự vào Libya. Nhưng gần nửa năm đã trôi qua kể từ khi Hội đồng Bảo
an Liên Hiệp Quốc chấp thuận cuộc can thiệp, và sự phát triển của tình hình dường
như đã chứng tỏ những người hoài nghi là đúng. Những người nổi dậy được vũ
trang và tổ chức rất kém, và họ không tiến thêm được bước nào từ căn cứ của họ ở
phía đông Libya về phía thủ đô Tripoli.
Trong khi đó những người nổi dậy ở
miền tây đã giành được quyền kiểm soát một khu vực xung quanh núi Nafusa chỉ
cách Tripoli 80 km. Nhưng họ không có kế hoạch tiến thêm về thủ đô, vì có rất
ít hy vọng thành công.
Ngoài việc thiếu những thắng lợi
quân sự, phe nổi dậy còn bị chia rẽ nữa. Sau khi chỉ huy quân nổi dậy, Abdul Fatah Younis, bị giết cách đây hai tuần, có lẽ bởi người trong nội bộ,
phong trào này có nguy cơ tan rã. Ở Benghazi, đã nổ ra những cuộc tranh cãi giữa
những người không theo đạo và những người Islamist. Saif al-Islam, con trai của
Gadhafi, đã khôn ngoan xúi giục cuộc xung đột này bằng cách tuyên bố trong một
cuộc phỏng vấn rằng chế độ đang thương lượng với những người Islamist để mời họ
chia chác quyền lực.
Một cuộc chiến tranh bộ tộc có thể
còn gây chia rẽ những người nổi loạn hơn nữa. Từ khi Younis chết, căng thẳng đã
tăng lên giữa những phe cánh khác nhau ở Benghazi. Ở miền tây đất nước, cái ban
đầu là một cuộc cách mạng đã mang những đặc điểm của một cuộc nội chiến trong
đó những bộ lạc chống Gadhafi đánh nhau với những bộ lạc ủng hộ nhà độc tài
này. Có lẽ chỉ có cái chết của Gadhafi mới có thể ngăn được đất nước này trượt
vào một cuộc nội chiến có thể kéo dài nhiều năm. Vào tháng Tám, những hy vọng của
tháng Hai đã từ lâu đầu hàng trước một tâm trạng vô vọng.
Nền dân chủ độc hại
Ở Tunisia bên kia bên giới, sự vật
có khác. Đất nước này đã lật đổ tên bạo chúa A Rập đầu tiên, Zine El Abidine Ben Ali. Những cuộc bầu cử tự do đầu tiên được dự kiến vào
ngày 23 tháng Mười.
Tuy nhiên, những người phản đối vẫn
có mặt khắp nơi ở thủ đô Tunis, mặc dầu so với mấy tháng trước thì ít hơn nhiều.
Thành phố này tràn đầy những cuộc tranh luận giữa những người Islamist và những
người ủng hộ phái tả. Cả hai phe đều cố gắng bôi nhau bằng những mầu đen tối nhất.
Và những cuộc điều tra ý kiến cho thấy hai bên ngang ngửa. Những cuộc xung đột
giữa các bên dữ dội và đôi khi bạo lực, còn trên Internet và truyền thông thì đầy
những tin đồn, những lời phỉ báng và dối trá. Cái không khí này thật là độc hại,
nhưng đây rõ ràng được coi là dân chủ.
Nhiều người cho những phiên tòa xử
vắng mặt nhà cựu độc tài Ben Ali là trò đánh đố. Trong khi tình hình ngày càng
trở nên xấu hơn đối với nhân dân của ông ta, thì Ben Ali đang sống lưu vong thoải
mái ở A Rập Saudi. Vương quốc trên sa mạc này tự coi nó là con đê chắn sóng đối
với mọi cố gắng cải cách. Vào tháng Hai, khi các nhà dân chủ phát đi lời kêu gọi
biểu tình trên Internet, rất ít người đủ can đảm để xuống đường, và những ai xuất
hiện đều bị bắt.
Gia đình thống trị này dùng những
phương pháp thường lệ của nó để dập tắt những tia lửa cách mạng. Vua Abdullah hứa
chi 120 tỉ $ cho trợ cấp thất nghiệp, xây nhà ở và giáo dục. Làm thế, ông ta đã
mua chuộc một cách hiệu quả những người chống đối và trung hòa ý chí theo đuổi
các cải cách dân chủ trên đường phố. Nhiều cuộc biểu tình phản đối lớn, bất chấp
những lời cảnh cáo, nổ ra ở miền đông A Rập Saudi, nơi có cộng đồng lớn người
thiểu số Shiite, đã bị đàn áp dã man.
A Rập Saudi thậm chí đã gửi trọng
pháo đến nước láng giềng Bahrain khi cộng đồng dân cư đa số Shiite của nước này
nổi dậy chống nhà cai trị của Sunni họ, Vua Hamad bin Isa Al Khalifa. Riyadh, sợ
ảnh hưởng của đối thủ đáng ghét Iran, cũng gửi những đơn vị đặc biệt của mình đến,
coi như theo yêu cầu của Bahrain.
Hơn 1.000 lính giúp đàn áp những
cuộc biểu tình ở thủ đô Manama của Bahrain. Đối với Khalifa, cái giá để tiếp tục
nắm quyền là ít nhất 30 người chết và hàng trăm người bị thương. Tình hình đã ổn
lại, cho đến thứ Sáu tuần trước nữa, khi bạo loạn lại nổ ra sau khi cái gọi là
đối thoại dân tộc thất bại.
Phần 3: Những lo ngại về Yemen
Hoàng gia Saudi còn lo lắng về
Yemen, nước láng giềng phía nam của nó hơn, tại đây tổng thống Ali Abdullah
Saleh, lên nắm quyền năm 1978, ban đầu chiến đấu điên cuồng để giữ lấy quyền lực.
Saleh bị thương nặng khi các đối thủ của chế độ tấn công lâu đài của ông ta hồi
đầu tháng Sáu, và chạy trốn sang Riyadh. Phong trào dân chủ, đã tổ chức những
cuộc biểu tình phản đối trên những quảng trường công cộng ở thủ đô Sana'a và
nhiều nơi khác trong nước, đã ăn mừng sự ra đi của ông ta như một thắng lợi của
mình.
Nhưng một sự chia rẽ sâu sắc đang
lan rộng trên khắp nước này. Yemen là nước luôn luôn bị thống trị bởi các bộ lạc, có nguy cơ bị chia cắt. Một số phe ủng hộ
con trai của Saleh, người đã được chọn như kẻ kế vị ông ta trước Mùa xuân A Rập,
và hy vọng sự trở lại của tổng thống, ông này đã rời bệnh viện Riyadh nơi ông
ta vào điều trị từ hôm Chủ nhật. Những người khác chiến đấu cho một khởi đầu
dân chủ mới. Một nhóm mà cả những người ủng hộ Saleh lẫn những đối thủ của ông
ta trong phái cải cách đều sợ đang được lợi từ sự lộn xộn này. Cả chính quyền địa
phương A Rập Saudi lẫn Hoa Kỳ đứng nhìn một cách vô vọng những chi bộ al Qaeda
Yemen giành được sức mạnh. Những chiến binh của chúng ở miền nam, theo báo cáo,
đã đến vùng ngoại ô thành phố Aden.
Nếu Yemen tan rã, điều càng ngày
càng trở nên có thể, nhiều người tin rằng bọn thánh chiến Hồi giáo sẽ chiếm quyền
kiểm soát – một ác mộng cho hoàng gia ở Riyadh và những người khác.
Jordan tương đối bình ổn
Nước láng giềng tây bắc của A Rập
Saudi dường như tương đối bình ổn so với các nơi khác. Tuy nhiên, để phòng ngừa,
Riyadh đã cấp cho Jordani nghèo túng 1tỉ $
để bù cho khoản thiếu nợ ngân sách kinh niên của đất nước trên sa mạc
này. Để mua bình ổn, Vua Jordani Abdullah II đã loan báo chính phủ có thể sẽ
tăng lương cho công chức và trợ giá thực phẩm, khí đốt và điện.
Amman đang phụ thuộc nặng nề vào
viện trợ tài chính của A Rập Saudi. Nhà vua, được coi là tương đối phóng
khoáng, cai trị một đất nước không có dầu mỏ không có cả công nghiệp gì đáng
nói, nhưng lại có một dân chúng gồm những người Bedouin và người Palestine tị nạn
rất dễ thay đổi.
Mặc dầu những người Jordani bất
mãn vẫn đang biểu tình trên các đường phố Amman, nỗi tức giận của họ không trực
tiếp chĩa vào nhà vua mà chỉ chống lại chính phủ của ông – tuy chính phủ này vẫn
nằm dưới quyền kiểm soát vững chắc của ông. Lòng tôn trọng triều đình Hashemite
vẫn còn gắn kết được đất nước, nhưng bất ổn có nguy cơ từ Syria tràn sang. Các
nhóm chống đối ở Syria rõ ràng có liên hệ với Jordani thông qua các mối quan hệ
gia đinh và bộ lạc. Thậm chí còn có tin là họ đã nhận vũ khí từ vương quốc của
Abdulah II. Liệu tia lửa cách mạng có bay từ Syria sang Jordani không?
Tổ chức Huynh đệ Hồi giáo hình
như là lực lượng chủ động đằng sau những cố gắng tổ chức một cuộc nổi dậy ở
Amman. Tình báo Mỹ được cho là đã cung cấp bằng chứng về việc này cho vua
Jordani. Điều chắc chắn đúng là Huynh đệ Hồi giáo được tổ chức tốt cả ở Jordani
lẫn Syria. Ở Syria, thành trì của nó là thành phố nổi loạn Hama.
Đổ thêm dầu vào đám lửa giận dữ
Bằng những cuộc tấn công tuần qua
vào thành phố này, Assad đã làm một bước ngoặt quyết định hướng về nguyên tắc
truyền thống của các bạo chúa: bạo lực gây nên sợ hãi, và càng nhiều bạo lực
càng nhiều sợ hãi.
Nhưng còn có một bài học khác mà
các chế độ ở Damascus và Tripoli chắc đã học được từ sự phát triển của tình
hình gần đây: nhân dân của thế giới A Rập, từ Tunis đến Cairo, và từ Manama đến
Benghazi, không còn có thể kiểm soát bằng bạo lực được nữa. Ngày nay, đây không
còn là cách mà thế giới A Rập – kể cả Syria – hoạt động nữa.
Các nguyên tắc của bạo chúa đã bị
đảo ngược: càng nhiều bạo lực càng sinh ra nhiều giận dữ, tiếp sức cho lòng can
đảm của những người bị áp bức – và không chỉ ở Hama.
DIETER BEDNARZ, VOLKMAR
KABISCH, CHRISTOPH REUTER, MATHIEU VON ROHR, DANIEL STEINVORTH, CHRISTOPH SYDOW
và VOLKHARD WINDFUHR tường thuật.
Christopher Sultan
dịch từ tiếng Đức.
Cuộc cách mạng thầm lặng ở Rabat:
Tuổi trẻ Morocco muốn thay đổi theo cách của họ
Ảnh: AFP
Lớp trẻ trên khắp đất nước
Morocco
đang đòi hỏi những thay đổi và nhiều tự do dân chủ hơn. Vua Mohamded VI đã cho
phép cải cách hiến pháp của đất nước, nhưng một vụ đánh bom tháng trước ở
Marrakech làm 17 người chết đã đe dọa tiến trình này.
Najib Chaouki và các bạn anh bố trí trên Facebook để gặp nhau ở gần
Témara, ngoại ô của thành phố Rabat thủ đô Morocco. Ké hoạch
là vào Chủ nhật 15 tháng Năm sẽ gặp nhau để làm một cuộc picnic trước trụ sở cục
tình báo nội địa. Họ muốn phản đối cái nhà nước cảnh sát trong đất nước của họ.
Témara là một nơi mà chính phủ không muốn nói đến. Đó là nơi mà người
ta cho rằng CIA của Mỹ và MI5 của Anh đã đưa đến và tra tấn dã man những kẻ bị
tình nghi là khủng bố sau các vụ tấn công ngày 11 tháng Chín, 2011.
Chaouki, 32 tuổi, một blogger của Rabat, và những người bạn cùng phản
đối với anh, động viên được mười nghìn người biểu tình mỗi tháng, tự hào về kế
hoạch của mình. “Chúng tôi muốn cho công luận biết về các chiến thuật phi pháp
của cục tình báo,” chàng trai có mớ tóc quăn dài giải thích.
Họ đã không đi làm được điều đó. Các đơn vị đặc biệt đã đợi chàng
trai từ sáng sớm. Chaouki đang ở trong siêu thị thì những cảnh sát mặc thường
phục bắt đầu đánh đập những người bên ngoài bằng dùi cui. Bọn sĩ quan đã theo
dõi khoảng 100 người phụ nữ và đàn ông trong hai giờ, thậm chí săn lùng họ trên
mái các tòa nhà quanh đó. Mười người phản đối cuối cùng đã bị thương phải đưa
vào bệnh viện.
Những cải cách của vua
Mohammed VI
Cuộc picnic thất bại chứng tỏ ba tháng sau khi giới trẻ Morocco kêu
gọi các cuộc biểu tình vào ngày 20 tháng Hai, mở rộng phong trào A Rập đòi dân
chủ sang đất nước của họ, thì tự do phát biểu ý kiến công khai vân còn đang bị
đe dọa ở đây.
Sự kiện ngày 15 tháng Năm
cũng bộc lộ một bước thoái lui nghiêm trọng trên con đường đi đến một xã hội tự
do, từ khi vua Mohammed VI hứa, vào đầu
tháng Ba, thiết lập một hệ thống dân chủ hơn và một nhà nước được điều hành bằng
các quy tắc của pháp luật. Nhà vua đã chỉ định một hội đồng quốc gia về nhân
quyền và thành lập một ủy ban để xây dựng bản hiến pháp mới. Ông tuyên bố rằng
ông sẵn lòng đi những bước mà ông thấy là cần thiết để Morocco đạt được một
cách hòa bình những gì Tunissia và Ai Cập chỉ có thể đạt được bằng cách truất
phế những kẻ đương quyền.
Nhưng tất cả những cái đó
là trước khi hai quả bom, rõ ràng được điều khiển từ xa, nổ trong quán cà phê
du lịch có tiếng Argana ở quảng trường Djemaa el-Fna nổi tiếng giữa trung tâm
Marrakech hôm 28 tháng Tư, giết chết 17 người. Cảnh sát đã bắt bẩy người tình
nghi - tất cả la những kẻ ủng hộ al-Qaida, theo thông tin từ bộ nội vụ Morocco.
Nhưng giống như những cuộc
đánh bom liều chết ở Casablanca
cách đây tám năm, ở đây cũng thế, các tin đồn bắt đầu lan truyền ngay lập tức rằng
cục tình báo trong nước đã nhúng tay vào vụ này. Các tin đồn ám chỉ rằng những
kẻ chơi rắn này, cố bám chặt lấy quyền lực của chúng, đã không vừa lòng khi nhà
vua thả khoảng 100 tù vào giữa tháng Tư, trong đó có nhiều người bị kết án là
khủng bố.
Một phong trào bị đe dọa
Từ đó đến nay, phong trào
đòi dân chủ dường như lại bị đe dọa trở lại, nhưng giới trẻ Morocco không để
cho mình bị đẩy lùi bật ra khỏi các đường phố một cách dễ dàng. “Họ đã vượt qua
bức tường sợ hãi” Fahd Iraqi nòi - anh là chủ bút tạp chí phê bình chính trị Tel Quel, tạp chí này ủng hộ những đòi hỏi
của những người biểu tình trẻ tuổi.
“Chúng tôi theo chủ nghĩa
hòa bình” Chaouki tuyên bố, anh học xong trung học ở Đức và học đại học ở đó. Sự
bất bình lớn nhất của giới trẻ Morocco
không phải là với chế độ quân chủ. Không giống như những đồng trang lứa của họ ở
các nước láng giềng, họ không kêu gọi lật đổ những người đang cai trị họ. Theo
ý kiến của họ, Mohammed VI vẫn có thể là quốc trưởng – chỉ có điều ông ta không
nên tiếp tục điều hành quốc gia nữa.
Đây là một khía cạnh lạ
thường của mùa xuân Morocco:
phong trào không nhằm lật đổ một kẻ thống trị, thế nhưng nó là một cuộc cách mạng.
Nhà vua tự coi mình là hậu duệ của đấng Tiên tri Mohammed, điều này khiến ông vừa
là lãnh tụ tôn giáo tối cao của các tín đồ, vừa là một nhà cai trị thế tục.
Tuy nhiên, quyền lực tuyệt
đối này, mà tuổi trẻ nổi dậy của đất nước muốn cắt bớt đi, đã không cho phép
nhà vua thực hiện những cái cách thích đáng – đã gặp phải sự chống đối từ hệ thống
chính trị cứng rắn và những người Islamist khi cần thiết. Ông đã thúc đẩy thông
qua một cải cách luật gia đình cho phụ nữ các quyền bình đẳng, ông theo đuổi việc
hòa giải với phe đối lập cánh tả của đất nước, bị đàn áp lâu dài dưỡi triều của
cha ông, Hassan II.
Tiến hành thay đổi từ bên trong.
Bây giờ Mahommed VI đã
tuyên bố xem xét lại hiến phap: trong tường lai nhà vua sẽ không còn có thể chỉ
định bất cứ ai mà ông thích đứng đầu chính phủ nữa. Ngược lại, người lãnh đạo
này sẽ đến từ một đảng thắng trong các cuộc bầu cử tự do. Nhà vua cũng muốn tiếp
tục tách các quyền lực ra và làm cho ngành tư pháp trở nên độc lập. “Hãy sáng tạo”
là lời khuyên của nhà vua đối với các thành viên của ủy ban hiến pháp mới, mà
ông lấy từ các đại diện của xã hội công dân, các học giả và các nhóm nhân quyền.
Cuộc chiến chống tham
nhũng cũng có công lao của nhà vua. Những khám phá liên quan đến thói quen của
các tầng lớp chính trị nhét đầy túi tham của họ, có trong các bức điện của tòa
đại sứ Mỹ do diễn đàn Internet WikiLeaks tiết lộ, gây nên rất nhiều bất bình
rong dân chúng Morocco, kích động những người chống đối trẻ tuổi đòi những kẻ
vô sỉ trơ tráo nhất trong số những kẻ cơ hội này rời khỏi các vị trí của chúng
gần với nhà vua. Họ đạt được một thành công khi nhà vua chỉ định Abdesselam
Aboudrar, người sáng lập chi nhánh Morocco của tổ chức Minh bạch Quốc
tế làm chủ tịch một cơ quan chính phủ hành động chống tham nhũng.
Trong những năm 1970,
Aboudrar âm mưu cùng với những người hoạt động cánh tả khác lật đổ nhà vua, sau
đó qua năm năm trong một nhà tù bí mật dưới tầng hầm của một đồn cảnh sát ở Casablanca. Bây giờ viên
kỹ sư và chuyên gia tài chính này tin rằng ông có thể đẩy nhanh các cải cách bằng
cách hợp tác với nhà vua.
Người có thời đã là kẻ
thù của nhà nước nói: vấn đề của Morocco không phải là quyền lực to
lớn của nhà vua, mà là bản thân các đảng chính trị. Chính những thành viên của
“Makhzen”, giới đặc quyền xung quanh nhà vua , vẫn thường xuyên phân phát chức
vụ cho những thành viên của 20 nhóm quan trọng nhất của chính phủ, và họ đã mất
tín nhiệm của cử tri. Trong các cuộc bầu cử nghị viện năm 2007, 63% những người
đủ tư cách đi bầu đã không làm thế.
Phần 2: Cái thời tự kiểm duyệt đã qua rồi.
Omar Balafrej, 37 tuổi, một
cựu đảng viên đảng xã hội chủ nghĩa Morocco, nói ông hài lòng về những thay đổi
hiến pháp của nhà vua đã cho các đảng chia phần trách nhiệm. Ông nói, đây đúng
là lúc để thế hệ các nhà chính trị trẻ tuổi thể hiện “lòng can đảm để tiến hành
những cải cách xa rộng hơn.”
Balafrej, người đứng đầu
một cơ sở bán công ươm mầm tài năng cho khu vực công nghệ thông tin, thích thú
khi thấy trong phong trào 20 tháng Hai giới trẻ đang dấn thân vào chính trị.
“Cái thời tự kiểm duyệt đã qua rồi,”ông nói. “Bây giờ chúng ta có thể phê phán
mọi thứ.” Ông không lo sợ về tương lai: “Nếu cải cách hiến pháp không đầy đủ
như chúng ta mong muốn, chúng ta có thể bác bỏ nó.”
Vào lúc này, những đối
tác khó ngờ có thể là đối tác - giới trẻ chống đối và nhà vua thích tự xưng là
nhà cải cách từ bên trên – đang dựa vào nhau. Họ là những tác nhân duy nhất cho
thay đổi giữa những đảng phái chính trị cứng rắn.
Không giống như các nước
A Rập khác, những người nổi dậy Morocco phải hoạt động với giả định rằng đa số
của đất nước 31 triệu dân này đang hết sức hài lòng với một vị vua gia trưởng
ngồi trông coi đất nước. Hơn bốn mươi lăm phần trăm dân số là dưới 35 tuổi, khiến
họ trở thành thế hệ “M6”, những người đến tuổi thành niên dưới triều trị vì của
Mohammed VI.
Nói chuyện với thế hệ trẻ qua làn sóng điện.
Thái độ của thế hệ trẻ đối
với cuộc sống đặc biệt gần gũi với đội ngũ đã dùng năm năm qua vận hành đài
phát thanh ưa thích nhất của giới trẻ Morocco, Hit Radio. Một triệu thính
giả hằng ngày tìm chương trình của Hit Radio, được làm bởi một đội ngũ nam nữ
nhân viên sống ở vùng Agdal kế cận Rabat.
Người sáng lập đài này,
Younès Boumehdi, 40 tuổi, nói ông là người đầu tiên cho những người trẻ tuổi
trong thế giới A Rập cơ hội nói công khai trên đài về những đề tài quan trọng đối
với họ. Đặc biệt, đài phát thanh của ông nổi tiếng vì tiết mục biểu diễn rap ở Darija, ngôn ngữ hằng ngày mạnh mẽ
của nhân dân, và Boumehdi tin rằng những cuộc biểu diễn này báo trước những bất
bình và những đòi hỏi của tuổi trẻ nổi dậy.
Là một chuyên gia thị trường
có bằng cấp ở Paris,
Boumehdi biết rằng phần lớn thính giả của ông không ủng hộ cuộc đấu tranh trên
các đường phố. “Chúng tôi không muốn hỗn loạn,” họ viết trên Facebook. Các
thành viên của thế hệ “M6” không muốn tự do họ mới giành được gặp nguy hiểm –
nhưng họ cũng muốn thấy thay đổi tiếp tục diễn ra.
Ella Ornsteindịch từ tiếng
Đức
Thư từ Yemen
SAU CUỘC NỔI DẬY
Những người chống đối có thể
tìm thấy một con đường giữa chế độ độc tài và vô chính phủ hay không
Dexter Filkins
NEW YORKER , 11/4/ 2011
Ảnh: GETTY IMAGES
Đầu tháng
Ba, khi hàng ngàn người đang kêu gọi cách mạng, thì Ali Abdullah Saleh, người
đã là Tổng thống của Yemen trong ba mươi ba năm qua, mở một cuộc ăn mừng khổng
lồ cho ông ta. Những cuộc nổi dậy trên khắp vùng Trung Đông đã quét bay hai bạn
đồng cảnh của Saleh và đang đe dọa hạ bệ chính chế độ của ông ta. Ở thủ đô
Sanaa, hàng ngàn người Yemen đổ vào đầy Sân vận động Cách mạng, lòng trung
thành của họ được bảo đảm bằng những lời
hứa trả công sau cuộc mít tinh. Một số leo lên những khán đài không mái, những
người khác tập hợp ở trên sân, nơi đặt những ghế nhựa trắng và xanh trên bãi cỏ
trước mặt một bục cao dành cho Tổng thống và người của ông ta. Bên ngoài sân vận
động, cách khoảng một dặm, những người biểu tình phản đối, đã tập hợp cả tuần
nay, lên án Saleh, hô to “Cút!” Hàng giờ liền những người Yemen trong sân vận động giơ những
tờ báo che đầu tránh cái nóng ngột ngạt. Tiếng loa om sòm, “Thưa quý vị, tổng
thống của toàn dân Yemen, người bảo tồn thống nhất, Vị Cứu tinh của Dân tộc,
bình an ở cùng Ngài, Ngài Ali Abdullah Saleh!”[4]
Đám đông
reo hò, hàng ngàn người vung tay, một số người dương cao những áp phích. Những
người đàn ông hôn gió; phụ nữ mặc những áo choàng đen nhánh, vỗ những bàn tay
đeo găng. Saleh, mặc bộ com lê xẫm màu và Ray-Bans, ngồi xuống một chiếc ghế chạm
khắc thủ công dát ngà. Tiếng hoan hô vang lên nhiều phút, cứ một hay hai đợt,
Saleh lại giơ tay phải lên. Rồi một đám đông do một người trên khán đài dẫn đầu,
bắt đầu hô lặp lại nhiều lần “Máu của chúng tôi, linh hồn của chúng tôi, chúng
tôi sẽ hy sinh cho ngài!”
Trước cuộc
xâm lược Iraq của Mỹ, năm
2003, người Iraq
cũng hát những bài tụng ca như thế với Saddam Hussein, người thầy và bạn của
Saleh. Người Yemen
thường gọi Saleh là “Saddam nhỏ.” Năm 1990, khi Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc
bỏ phiếu trục xuất những lực lượng của Saddam khỏi Kuwait,
Yemen
là nước A rập duy nhất bỏ phiếu chống. Để trả đũa, Saudi
Arabia và những nước vùng vịnh khác đã đuổi hàng triệu
dân Yemen,
khiến đất nước này mất đi nguồn tiền gửi về - một trong những nguồn tiền chủ yếu
của nó. Nền kinh tế Yemen
sụp đổ, và không bao giờ hồi phục lại được hoàn toàn. Gần như mọi khía cạnh của
cuộc mít tinh của Saleh bắt chước những cuộc diễu hành phô trương từng được tổ
chức cho Saddam - thậm chí những áp phích, vẽ nhà lãnh đạo này trẻ trung hơn và
có khí lực hơn ông ta trong thực tế.
Trong khi
người Yemen bày tỏ lòng ngưỡng mộ với ông ta như thế, thì Saleh tỏ ra bồn chồn
trong ghế của ông ta, liên tục quay sang nói chuyện riêng, lúc đầu với Thủ tướng
và Phó tổng thống, sau với một nhóm phụ tá đằng sau ông ta. Người ta bảo Saleh
có một trí thông minh hiểu rộng biết nhiều và sức chú ý của một thiếu niên. Cuối
cùng, sau khi liếc nhìn đồng hồ tay, chiếc đồng hồ mặt vuông kính màu tím trang
điểm đầy châu báu, ông ta đứng lên nói.
Saleh lùn
và chắc mập, với cử chỉ thô kệch và một giọng nói thô ráp. Trong một diễn văn
trước đó một tuần, ông ta thật sự đã hét vào mặt những người tập hợp trước ông,
thề đánh những người biểu tình “đến giọt máu cuối cùng.” Trong một bài diễn văn
sau đó, ông ta đổ tội biểu tình cho Mỹ và
Israel.
“Tại Tel Aviv có một phòng điều khiển để làm mất ổn định thế giới A rập,” Saleh
nói. “Nó được quản lý bởi Nhà trắng.” Đó là loại nhận xét thường phục vụ rất tốt
cho ông ta.
Nhưng lần
này giọng điệu của Saleh mềm mỏng lắm. “Đồng bào thân mến” ông ta bắt đầu - một
sự nhún nhường khác thường. Ông ta cám ơn những người Yemen đã ra đường để ủng hộ ông, và
ngay cả những người phủ nhận tính hợp pháp của chính phủ ông. Saleh nói ông ta
đã ra lệnh cho các lực lượng an ninh tiếp tục bảo vệ những người biểu tình của
cả hai bên. Từ “tiếp tục” làm cho câu nói thành dối trá: từ khi bắt đầu các cuộc
biểu tình, nhiều đoàn người, đôi khi có cả cảnh sát và quân đội tham gia, đã tấn
công những người biểu tình bằng gậy gộc, dùi cui và súng.
Bây giờ
hình như Saleh đang đề nghị ngừng bắn. Ông ta phác thảo nhiều đề xuất thay đổi
đối với Hiến pháp Yemen,
hứa hẹn chuyển nhiều quyền của ông ta cho quốc hội. Đây là lần thứ hai ông ta đề
xuất nhân nhượng bởi vì những rắc rối ở Trung Đông đã bắt đầu. Đầu tháng Hai,
khi những người biểu tình vừa bắt đầu thu hút sự chú ý của quốc tế, Saleh tuyên
bố rằng ông ta sẽ rút lui vào cuối nhiệm kỳ của mình, năm 2013, và hứa hẹn rằng
Ahmed con trai ông ta, chỉ huy Vệ binh Cộng hòa, sẽ theo ông ta ra khỏi dinh.
Bây giờ ông ta nói “Tôi cầu xin Chúa hướng dẫn tất cả chúng ta vì quyền lợi của
đất nước ta.”
Đến đây, những
người Yemen
tuôn ra đường leo lên các xe buýt và nhận tiền của mình.
Người Yemen
đã tranh cãi trong suốt nhiều tuần về việc liệu Saleh có đánh như Gadhafi hay
là ra đi trong hòa bình như Mubarack. Dường
như nhiều người nhất trí rằng Saleh sẽ rơi vào khoảng giữa hai cực đó, nhưng
không ai biết rõ ở đoạn nào. Ông ta không điên khùng, nhưng ông ta cũng không
phải là một lão già mỏi mệt.
Đáp lại bài
diễn văn trên sân vận động, John Brennan, cố vấn về chống khủng bố của Tổng thống
Obama phát đi một tuyên bố từ Nhà Trắng khen Saleh và tuyên bố rằng, “Tất cả
các thành phần đối lập của Yemen nên đáp ứng có tính xây dựng với lời kêu gọi của
Tổng thống Saleh đi vào một cuộc đối thoại nghiêm túc để kết thúc tình trạng bế
tắc hiện nay.”
Không có ai
cắn câu. Các lãnh tụ đối lập bác bỏ sáng kiến của Tổng thống và kêu gọi ông ta
từ chức.
Buổi sáng
hôm sau, cảnh sát và binh lính đã tấn công một nhóm người biểu tình chống chính
phủ tại Đại học Tổng hợp Sanaa, xịt hơi cay, bắn đạn cao su, và đạn thật. Những
người biểu tình ném đá vào binh lính. Khi cuộc đụng độ kết thúc, bốn người Yemen
chết, và hơn ba trăm người bị thương, gần như tất cả số đó là những người biểu
tình. Ngày hôm sau nữa, cảnh sát và binh lính lại lao vào những người biểu
tình, giết chết hai người và làm bị thương hơn một trăm người. Cuộc nổi dậy ở Yemen
đã đi vào một giai đoạn đẫm máu.
Nhà trắng
nói tuyên bố của Brennan không có ý định cho phép Saleh tấn công những người biểu
tình. Nhưng, từ khi những cuộc náo loạn bắt đầu, chế độ Saleh đã nhận được sự ủng
hộ mạnh mẽ khác thường từ chính quyền Obama. Nhà Trắng đã nói rõ nó tin rằng cần
phải tránh thay đổi đột ngột ở Yemen,
thậm chí với giá của nhiều sinh mạng người Yemen. Brennan, một trưởng cơ quan
CIA ở Trung đông, duy trì một quan hệ gần gũi với Saleh, và đã sang thăm Sanaa
bốn lần từ khi nhận chức vụ chống khủng bố năm 2009. Sau bài diễn văn ghê gớm
trách Israel
và Mỹ về những cuộc biểu tình phản đối, Saleh gọi cho Brennan để xin lỗi. Chính
quyền Obama trách Saleh sau cuộc tấn công vào những người biểu tình ở Đại học
Sanaa, nhưng nó không thúc ép ông ta từ chức. Một sĩ quan cao cấp quân đội Mỹ
giải thích tại sao: “Nếu Saleh ra đi, sẽ có hai kết quả có thể xảy ra nhất: hoặc
là vô chính phủ hoặc là một chính phủ không thân thiện.”
Vị sĩ quan
đó nói, dù là kết quả nào trong hai cái đó thì cũng sẽ khích lệ Al Qaeda ở Bán
đảo Arab, bọn này đã có chỗ trú chân chắc chắn ở Yemen. Một quan chức cao cấp trong
chính quyền nói rằng có khoảng từ một trăm đến hai trăm chiến binh Al Qaeda
trung kiên đang ở Yemen và
có hàng trăm người Yemen
ủng hộ chúng. Cùng với những vùng thuộc các bộ lạc của Pakistan và Somalia,
Yemen hiện giờ được coi như một trong những vị trí có khả năng nhất cho Al
Qaeda mở một cuộc tấn công vào Mỹ. Hai âm mưu thất bại gần đây hóa ra xuất phát
từ các thành viên Al Qaeda ở Yemen: âm mưu của Umar Farouk Abdulmutallab bố trí
gài bom trên máy bay vào Ngày Giáng sinh 2009, và chất những ống mực máy in chứa
thuốc nổ lên những máy bay vận tải có hợp đồng với Mỹ, tháng Mười 2010. Các
quan chức Mỹ nói rằng họ đã tìm thấy mối liên hệ giữa Abdulmutallab với Anwar
al-Awlaki, một giáo sĩ người Mỹ gốc Yemen, hiện nay là phát ngôn nhân nổi bật
cho Al Qaeda trên bán đảo Arab. Mùa xuân năm ngoái, Tổng thống Obama cho phép
giết Awlaki, được biết hiện đang ẩn náu ở Yemen.
Quan hệ giữa
Mỹ với Saleh đã có lúc căng thẳng. Năm 2000, sau khi Al Qaeda đánh bom tàu khu
trục USS Cole, ở cảng Aden, các quan chức Mỹ phàn nàn rằng chính phủ Saleh chẳng
làm gì ngoài việc cản trở cuộc điều tra của họ, và rằng những thành viên cao cấp
của chính phủ ông ta dường như thông đồng với nhóm khủng bố. Tuy nhiên bản thân
Saleh không bị coi là một Islamist, hay ngay cả một người đặc biệt mộ đạo, giống
như Saddam trước ông ta, ông ta chỉ quan tâm nhất đến chuyện duy trì quyền lực.
Thật ra, sau vụ tấn công ngày 11/9/2001, Saleh, phụ thuộc vào Saudi và viện trợ
của phương Tây, đã hứa hợp tác với cuộc chiến chống khủng bố.
Từ đó, ông
ta đã cho phép Mỹ bắn tên lửa vào các chiến binh nghi vấn, ra lệnh cho các lực
lượng của ông ta bắt giữ những kẻ tình nghi khủng bố theo yêu cầu của Mỹ, và tạo
điều kiện cho các hoạt động thu thập tin tức tình báo kể cả do thám bằng máy
bay không người lái. Mỹ phối hợp đưa người vào một trung tâm chỉ huy quân sự ở Yemen.
Trong những
năm gần đây, Mỹ đã tăng đột ngột viện trợ cho chế độ Saleh, tập trung vào huấn
luyện và trang bị cho các đội quân chống khủng bố của Yemen những vũ khí hiện đại,
camera quay ban đêm, và trực thăng. Chương trình này mãi đến gần đây, năm 2008,
vẫn còn chưa đáng kể, thì năm ngoái đã có một ngân sách một trăm năm mươi triệu
đô la. Mỹ cũng tăng đáng kể viện trợ kinh tế và phát triển cho Yemen, phần lớn
nhằm vào những vùng có đông những kẻ cực đoan.
Như các
quan chức ở cả Washington và Sanaa nhiều lần nhắc tôi, Yemen không phải là Ai Cập,
nó về thực chất không có giai cấp trung lưu, một xã hội công dân yếu, một tầng
lớp trí thức đứng bên lề, và không có thiết chế xã hội nào hoạt động độc lập đối
với Saleh. Phe đối lập Yemen bao gồm những người Islamist nổi tiếng, trong đó
có Abdul Majeed al-Zindani, một giáo sĩ mà Mỹ chỉ rõ là một tên khủng bố.
Một nhà ngoại
giao phương Tây ở Yemen
nói, “O.K., tuyệt, Saleh ra đi. Thế rồi bạn làm gì? Không có một thiết chế nào
có khả năng - trong bộ máy quan liêu, trong quân đội, hay trong bất kỳ một tổ
chức nào trong xã hội này - thực sự bước vào và nhặt lên những mảnh vụn và điều
hành một cuộc chuyển đổi.” Một nhà nước thất bại ở Yemen, kết hợp với một tình
trạng vô chính phủ đã có sẵn ở Somalia, có thể cung cấp cho các chiến binh
Islamist hàng trăm dặm bờ biển không có người canh giữ, cắt đứt đường tàu biển
chạy từ Kênh Suez đến Ấn Độ Dương.
Vị quan chức
cao cấp trong chính quyền (Mỹ) thì nói toạc ra: “Mục tiêu của chúng tôi là ngăn
ngừa một cuộc đảo chính hay một vụ tiếm quyền của loại như Huynh Đệ Hồi giáo hoặc
Al Qaeda.”
Ngay trong
tình trạng rối loạn, Yemen
vẫn là một chốn đẹp một cách giản dị. Ở Sanaa, cổng lớn Ottoman ở lối vào khu
phố cổ dẫn đến một mê cung những con đường nhỏ và những ngôi nhà đá có tháp cao
với những akmar, hay những “mặt
trăng”, những cửa sổ hình lưỡi liềm lắp kính nhiều màu. Những con đường nhỏ tạo
cho Sana cái vẻ
cổ kính. Người ta đi bộ trên các đường phố mang những jambiyas, những dao găm cong hai mặt cắm trong những vỏ bao rực rỡ
sắc màu và đeo ngay trên bụng. Phụ nữ, trong những áo choàng đen nhánh, đôi khi
đội nón rơm, trông nghiêng như những bà phù thủy.
Sau vài giờ
hoạt động buổi sáng, nhịp độ ở Sanaa giảm xuống, khi những người Yemen
ngồi xuống với những túi là khat của
mình - một loại dây leo vạn niên thanh có chất ma túy mà những chiếc lá mềm mại
của nó được nhét đầy mồm. Cho đến đầu buổi tối, nhiều cư dân thành phố đi vào một
nhà tắm hơi tập thể. Ali Saeed al-Mulaiki, một nhà báo Yemen nói đùa với tôi rằng Saleh nên cám ơn hiện
tượng này, “Nếu người dân Yemen
không nhai những lá khat, họ sẽ nghĩ
về tương lai của họ và về cuộc sống của họ, và sẽ có thể có một cuộc cách mạng.”
Khat không chỉ hủy hoại tinh thần làm
việc của người Yemen,
nó còn hút cạn khô đất nước này. Mỗi một túi lá dùng hàng ngày cần khoảng năm
trăm lít nước để làm ra nó, và các nhà khoa học tiên đoán rằng Sanaa sẽ bắt đầu
khô cạn từ thập kỷ sau, vào khoảng thời gian mà dầu mỏ của nó cũng hết.
Bên ngoài
các thành phố phong cảnh mở ra những dòng suối cạn, những khe núi, những vách
đá dựng đứng, từ đó những ngôi làng đá không cây cối có vẻ như không ngừng mọc
lên. Trong những vùng nông thôn, phép vua thua lệ làng, lệnh của chính phủ hết
hiệu lực, thay vào đó là truyền thống của bộ lạc. Những cuộc giao tranh lẻ tẻ
thường xuyên nổ ra giữa các bộ lạc, quân của một số bộ lạc sử dụng cả súng máy
và súng cối. Thật ra, người Yemen
đánh nhau từ năm 1962, khi một nhóm sĩ quan quân đội lật đổ triều đại trị vì phần
hiện nay là miền bắc của đất nước. Vương triều ở miền nam, phần lớn nằm dưới sự
cai trị của Anh cho đến 1967, đã trở thành chư hầu của Liên Xô trước khi sáp nhập
với miền bắc, năm 1990.
Saleh đã
cai trị các bang Yemen - trước tiên là miền bắc, sau đó cả nước thống nhất - từ
1978, khi đó vốn là một trung tá trẻ gần như không có học vấn chính quy, ông ta
đã cướp chính quyền sau vụ ám sát Tổng thống Ahmed al-Ghashmi bằng một chiếc cặp
chứa bom nổ. (Quả bom được gài bởi một đặc phái viên từ miền Nam Yemen). Vào thời
gian đó, Saleh đang đóng quân ở thủ đô thương mại của Yemen, Taiz, tại
đó ông ta chỉ huy một đơn vị đồn trú ở địa phương. Khi nghe thấy tin này, ông ta lập tức bay đến Sanaa. Trong vài
ngày, ông ta đã thuyết phục được nghị viện Yemen và quân đội để chấp thuận sự
lên ngôi của ông ta.
2.
Vào bữa trưa, một sĩ quan
phụ tá nói với tôi một cách giải thich không chính thức con đường thăng tiến của
Saleh: “chuyện là, các tướng quyết định trao cho ông ta quyền lực bởi vì ông ta
là người duy nhất muốn đảm nhiệm.” Viên phụ tá tiếp tục: “Thấy không, ông ta là
người vô dụng. Ông ta là con người từ làng quê ra không có học thức. Nhưng tính
cách ông ta thì rất mạnh.” Những áp phích của Saleh từ thời gian ấy vẫn còn được
dùng để trang điểm các đường phố Sanaa, thể hiện một người đàn ông trẻ tự tin với
bộ ria mép dày và mớ tóc rậm bồng lên từ chiếc mũ sĩ quan của ông ta, trông đặc
biệt giống đại tá Muammar Gadhafi, người đã nắm quyền ở Libya trước đó chín
năm. Từ khi nắm được quyền kiểm soát, Saleh đã thoát khỏi nhiều vụ âm mưu ám
sát, và chiến đấu và chiến thắng một cuộc nội chiến, hiện nay ông ta đang đánh
lại một cuộc nổi dậy ở miền nam và bạo loạn ở miền bắc do Houthis, một dân tộc
thiểu số Shiite của Yemen phát động.
Saleh, năm nay ở độ tuổi
sáu mươi, được coi là một bậc thầy trong việc giữ cho các bộ lạc Yemen
tách xa nhau ra và điều quan trọng hơn là tách xa khỏi ông ta. “Trí tuệ xúc cảm
của Tổng thống là ngoại cỡ.” Một quan chức phương Tây ở Yemen là người thường gặp ông ta
nói, “Ông ấy cân bằng tất cả các lực lượng, tác động đến mọi quan hệ cá nhân,
xoay sở làm sao để giữ cho nó không ra khỏi tầm kiểm soát. Ông ấy không có lập
trường nào cố định cả. Các tính cách của ông ây hoàn toàn có tính tình huống.”
Các quan chức Mỹ mô tả
Saleh cho tôi như một người không phức tạp, thông minh và được chăng hay chớ.
Ông ta chỉ tập trung tư tưởng khi ông ta nói. “Nói chung ông ta quan tâm đến
nói nhiều hơn nghe.” Nhà ngoại giao phương Tây ở Yemen nói với tôi. Các bức mật điện
ngoài giao do WikiLeaks tiết lộ năm ngoái chứng minh tính khí của ông hay thay
đổi, đối với các quan chức Mỹ dường như nó cùng một lúc vừa làm yên tâm, vừa khiến
vui thích đồng thời lại làm khiếp sợ. Một bức mật điện mô tả Saleh là “tẻ nhạt
và thiếu kiên nhẫn” một người khác nói rằng ông ta xoay chuyển từ “khinh khỉnh
và thô bạo” đến “hòa nhã và tâm đắc.” Có một dịp, tướng Davis Patraeus, lúc đó
là trưởng Trung tâm Chỉ huy, nói với Saleh về vấn đề buôn lậu từ Djibouti, vượt
qua Hồng Hải, Slaeh bảo Patraeus gửi một thông điệp đến Tổng thống Djibouti, ”Tôi
không quan tâm chuyện hắn buôn lậu uytxky sang Yemen, miễn là uytxky
ngon.”
Saleh khăng khăng nói với
người Mỹ rằng Yemen
sắp có nguy cơ bị chiếm bởi Al Qaeda. “Tôi đã để ngỏ một cánh cửa cho các ngài
đánh bọn khủng bố,” Saleh cảnh báo Brennan trong cuộc gặp năm 2009. “Nếu các
ngài không giúp đỡ, đất nước này sẽ trở nên tồi tệ còn hơn cả Somalia.” Trong những bức mật điện
WikiLeaks, Saleh được mô tả như thường xuyên hỏi xin tiền Mỹ, và không thỏa mãn
với những gì ông ta nhận được. Câu nói của ông ta được nhắc đến là “người Mỹ
máu nóng và hấp tấp khi cần đến chúng ta” nhưng “máu lạnh và phớt Ăng lê khi
chúng ta cần họ.”
Saleh thống trị Yemen
lâu đến nỗi ông ta đã làm mất hiệu lực của mọi thiết chế độc lập tồn tại trước
đó, phần lớn thông qua chủ nghĩa cánh hẩu. Ngoài Ahmed, người con chỉ huy Vệ
binh Cộng hòa, ít nhất hai chục thành viên gia đình nắm giữ những vị trí then
chốt trong chính phủ. Họ kiểm soát ngành công nghiệp dầu khí, điều hành ngành
hàng không quốc gia - Yemenia; chiếm những cương vị như Phó Thủ tướng và Đại sứ
tại Hoa Kỳ và lãnh đạo các cơ quan an ninh nhằm dập tắt những người bất đồng
trong nước.
Saleh đã duy trì được sự
thống nhất Yemen
chủ yếu qua hối lộ - một hệ thống rộng khắp cả nước trực tiếp chi tiền cho các
thủ lãnh bộ lạc. Các quan chức Mỹ và Yemen nói chế độ này đã chi hàng chục
triệu đô la mỗi năm. Các thủ lãnh bộ lạc nhận tiền còn nhiều hơn từ chính phủ
Saudi Arab, là nước muốn duy trì ổn định ở Yemen, nước láng giềng phía nam của
nó.
Abdullah Rashed
al-Jumaili, một tù trưởng ở bộ lạc Baqil
nói với tôi rằng, “Tôi nhận tiền từ chính phủ Saudi cũng như từ chính phủ Yemen.
Ấy, tiền lương không nhiều bằng tiền quà tặng.” Jumaili nói rằng ông ta nhận
khoảng hai nghìn bảy trăm đô la mỗi tháng từ Saudi và hai nghìn ba trăm đô la từ
chính phủ Yemen.
Người dân trung bình Yemen
kiếm được dưới ba đô la một ngày. “Tất cả các tù trưởng đều nhận khoản tiền
này,” Jumaili nói. “Nó là chế độ.”
Những khoản tiền ấy không
trông mong đổi được gì nhiều, ngoài hòa bình - và, khi thời gian đến, phiếu bầu.
Những khoản chi ấy giúp Saleh tái đắc cử trong những bối cảnh mà nhiều người Yemen
coi là trò hề lố bịch. Abdul Rehman Ali Barman, một luật gia của Tổ chức Quốc
gia Bảo vệ Nhân quyền và Tự do, một trong số ít tổ chức phi chính phủ ở Yemen, nói:
“Năm 2006, Liên hiệp Châu Âu đến với các quan sát viên của họ và tuyên bố rằng
cuộc bầu cử là công bằng và công khai. Nhưng lúc họ mới đến đây thì các kết quả
bầu cử đã cầm chắc rồi. Người ta đã được trả tiền.”
Mặc dầu Saleh đã chứng tỏ
khéo léo trong việc duy trì quyền lực, ông ta đã làm được rất ít việc khác. Bốn
mươi phần trăm người lớn Yemen
mù chữ, và hơn một nửa số trẻ em trong nước suy dinh dưỡng. Ngoài hối lộ - một
trong những khoản chi lớn nhất của Yemen - còn có tham nhũng. Chính phủ
Sanaa thậm chí lấy chính phủ Karzai ở Afghanistan làm một mẫu mực cho
mình. Mohamed Ali Jubran, một nhà kinh tế học ở trường Đại học Sanaa nói với
tôi, “mọi nguồn tài lực mà chính phủ có thể nắm vào trong tay nó đều bị những
người xung quanh tổng thống hút ra. Những gì còn lại không đủ để đáp ứng nhu cầu
của nhân dân Yemen.”
Jubran nêu ngành công
nghiệp dầu khí, hiện nay cung cấp khỏang bảy mươi phần trăm thu nhập của Yemen.
Các thành viên gia đình Saleh sở hữu hầu hết các doanh nghiệp vận tải và các dịch
vụ khác cho các công ty khai thác và chế biến dầu. Chẳng hạn, một trong những
công ty dịch vụ dầu lớn nhất kiểm soát bởi người cháu của Tổng thống là Yahya
Mohamed Abdullah Saleh. Theo Jubran công ty này bắt chính phủ Yemen phải gánh khoản chi phi cao dị
thường cho những dịch vụ thường của nó. “công ty của Yahya bắt chính phủ phải
gánh một ngàn hai trăm đô la mỗi tháng trả lương cho lái xe, trong khi bản thân
anh ta chỉ trả cho lái xe hai trăm đô la.” Jubran nói. “Công ty lấy số còn lại.”
(Yahya Saleh không trả lời yêu cầu phỏng vấn.)
Chính phủ Saudi rõ ràng
đã biết về tình trạng tham nhũng của chính phủ Yemen, và đã cố gắng tránh nó. Theo
một bức mật điện mà WikiLeaks có được, năm 2009 Hoàng thân Mohammed bin Navef,
thứ trưởng nội vụ của Saudi nói với đặc phái viên Hoa Kỳ Richard Holbrooke rằng
viện trợ của Saudi cho Yemen
hiếm khi “dưới dạng tiền mặt… Tiền mặt có xu hướng chạy tuốt vào các nhà băng
Thụy Sĩ.”
Từ khi bắt đầu có các cuộc
nổi dậy ở Trung Đông, Saleh đã nâng lương cho hầu hết công chức, cảnh sát và
binh lính. Jubran nói với tôi rằng chi tiêu của chính phủ năm 2011 dự tính sẽ
vượt thu nhập một khoản chênh nguy hiểm. Saleh cũng đã bắt đầu tăng tiền chi
cho các thủ lãnh bộ lạc, với ý đồ giữ cho họ khỏi chạy sang hàng ngũ chống đối.
“Đây là mùa hái ra tiền” một cố vấn của
Saleh nói với tôi.
Cho dù những khoản chi hấp
tấp này có cứu được Saleh thoát khỏi cuộc khủng hoảng trước mắt, thì một thảm họa
kinh tế rõ ràng không thể tránh khỏi. “Các bánh xe sắp sửa rời ra” nhà ngoại
giao phương Tây ở Yemen
nói với tôi như vậy.
Điều gì sẽ xảy ra sau đó?
Jumaili, thủ lĩnh bộ lạc Baqil, nói rằng ít có thủ lĩnh bộ lạc nào còn trung
thành với Saleh sau khi tiền hết. “Mua thì vĩnh viễn,” Jumaili bảo tôi. “Thuê
thì tạm thời thôi.”
Vào tối 15 tháng Giêng
2011, một ngày sau khi nhà độc tài Tunisia Zine el-Abidine Ben Ali bỏ chạy khỏi
đất nước, Tawakkol Karman, một phụ nữ ba mươi hai tuổi điều hành một tổ chức
chuyên bảo vệ các nhà báo - quyết định nắm
lấy khoảnh khắc này. Chị vận động nhiều người bạn của chị tập hợp ở quảng trường
trước trường Đại học Sanaa, và họ nhanh chóng tập hợp quanh bức tượng hiện đại
có tên là “Sự khôn ngoan của Nhân dân Yemen.” Karman cùng nhiều người khác hoan
hô cách mạng Tunisia.
Tối hôm sau, thêm nhiều
người Yemen tham gia, và họ
diễu hành đến Đại sứ Tunisia,
kêu gọi Saleh từ chức. Sau một tuần, Karman trở thành lãnh tụ phong trào, và
hàng trăm người Yemen - chủ yếu là sinh viên và những người vừa tốt nghiệp,
cùng đứng với chị trong quảng trường, kêu gọi lật đổ Slaeh. (Đây là một thời
gian thuận lợi cho sinh viên, họ vừa kết thúc những cuộc thi cuối học kỳ.) Karman
cảm thấy hồ hởi; cách mạng hình như đang lan rộng ra khắp Trung Đông.
Tối 22 tháng Giêng, khi Karman
đang trên đường lái xe từ chỗ làm về nhà, xe của chị bị một chiếc xe không biển
số ép vào lề đường. Một toán đàn ông, không mặc đồng phục và không có thẻ chứng
minh, bước ra và bắt chị đi. Nhưng những cuộc biểu tình ở Đại học Sanaa vẫn tiếp
tục. Sau ba mươi sáu giờ, Karman được thả nguyên vẹn - nhưng với một lời cảnh
cáo. Saleh nói với Tariq anh trai của Karman. “Hãy kiểm soát em gái của anh,” Tổng
thống nói. “Bất cứ ai không tuân lệnh tôi sẽ bị giết.”
Lần đầu tiên tôi thấy
Karman, chị trèo lên một sân khấu tạm mà những người biểu tình đã dựng lên
trong quảng trường. Chị đội một chiếc khăn trùm đầu và mặc chiếc áo dài dài tay
thay cho chiếc áo choàng. Đó là một buổi tối ấm áp giữa tháng Hai, và chị vừa mới
từ Taiz trở về, ở đó những cuộc biểu tình lớn hơn ở Sanaa. Vào buổi tối hôm ấy,
có lẽ đến hai ngàn người biểu tình đã tập hợp, phần lớn vẫn là sinh viên và những
thanh niên khác. Đa số là đàn ông.
Khi Karman cầm lấy chiếc
micro và bắt đầu nói, hai ngời trai trẻ đứng bên tôi bắt đầu thì thầm với nhau.
Karman là một hình ảnh đẹp ở Yemen,
một người phụ nữ giữa một biển đàn ông, dẫn đầu một cách tự tin. Ngay cả dưới cổng
trường đại học đầu tiên của nó, Yemen
vẫn là một xã hội bảo thủ sâu sắc. Nhưng Karman không do dự. “Nhân dân Yemen
chịu đựng như thế đã đủ rồi!” chị kêu lên, với những tiếng gào ủng hộ. Chị bắt
đầu hô to, “nhân dân muốn kết liễu chế độ này!” - và đám đông hô theo chị.
Mấy hôm sau, tôi đến thăm
nhà Karman ở trung tâm Sanaa. Trên mặt lò sưởi trong phòng khách là những bức ảnh
đóng khung của bốn người: Mahatma Gandhi, Martin Luther King, Nelson Mandela,
và Hillary Clinton. Karman gặp Clinton
hồi tháng Giêng, ngay trước khi cuộc nổi dậy bắt đầu. Tổ chức của chị, Các Nhà
báo Nữ không Xiềng xích, nhận được tài trợ từ chính phủ Mỹ. Cuộc gặp với
Clinton do Đại sứ Mỹ bố trí, chị nói. Nhìn vào bức ảnh Clinton, chị nói thêm, “Tôi không muốn làm bộ
trưởng ngoại giao, nhưng bà ấy là mẫu mực cho vai trò của tôi”.
Gương mặt Karman, đóng
khung trong chiếc khăn trùm đầu mầu đỏ tươi, không thể hiện chút mệt mỏi nào.
Cách đó mấy hôm, vào những buổi cầu nguyện ngày Thứ Sáu, một số giáo sĩ ở
Sanaa, chắc bị chính phủ thúc ép, đã đưa chị ra kết tội chị đã làm hư hỏng đạo
đức của phụ nữ Yemen.
Karman cười vào lời phê
phán đó. Chị nói, “lúc nào chồng tôi cũng động viên tôi, cha tôi cũng thế. Đôi
khi chồng tôi bảo tôi thôi, cả cha tôi cũng thế. Họ lo lắng cho tôi. Tôi tất
nhiên không để ý đến họ.”
Số ít lãnh đạo phụ nữ nòng cốt ở Trung Đông có xu hướng là một kết
hợp của tính kiên cường, có giáo dục và địa vị cao trong xã hội, khiến họ có sự
tự tin cần thiết để thách thức truyền thống, và những mối quan hệ để giữ cho họ
an toàn. Karman, mẹ của ba đứa trẻ, là con gái của Abdul Salam, vốn là bộ trưởng
tư pháp và các công việc quốc hội trong chính phủ trước đây. (Ông từ chức năm
1994, khi Saleh dùng lực lượng quân sự để
nghiền nát phong trào đòi ly khai ở miền nam.) Anh trai Tariq của chị là một
nhà thơ, cho đến khi anh đưa thông điệp cho em gái, anh là một người ủng hộ
Saleh.
Karman, có bằng quản trị công
của trường đại học Sanaa, học thứ tiếng Anh ngắc ngứ của chị trong một khóa bốn
tháng tại trường đó. Chị tìm thấy nguồn khích lệ tinh thần trong hồi ký của
Mandela, “Con đường dài đến Tự do,”
và trong tiểu sử tự thuật của Gandhi. Năm 2005, với sự giúp đỡ của các nguồn
tài trợ từ các chính phủ và các tổ chức viện trợ nước ngoài, chị thành lập Các Nhà báo Nữ không Xiềng xích.
Vào lúc chị bắt đầu kêu gọi
Saleh từ chức, chị đã trở thành một sự khó chịu quen thuộc ở Yemen. Năm 2006, chị lập một hệ thống
nhắn tin phổ biến những tin tức chính trị và các thông điệp cho hàng ngàn người.
Sau một năm, chế độ đình chỉ nó. Karman và nhiều người Yemen khác biểu tình ở Quảng trường
Tự do, đi qua các đường phố từ phủ Tổng thống, nơi họ đòi hỏi dân chủ và nhân
quyền.
“Có ngày chỉ có tôi với mấy
người bạn tôi,” chị nói. “Đôi khi có hàng ngàn.”
Cuộc cách mạng ở Tunisia
khiến chị phấn khởi. Trước đó, chị đã luôn luôn tìm cách cải thiện tình hình ở Yemen
từng chút một: tăng cường tự do báo chí, nhiều giấy phép hơn cho các tờ báo, thả
những nhà báo bị bắt. “Tunisia
là giải pháp của chính chúng tôi, nó rất hợp với ý tôi” chị nói. “Vấn đề của xã
hội chúng tôi là chế độ này, cũng như ở Tunisia. Toàn bộ chế độ phải biến
đi.”
.
Hồi tháng Giêng, khi
phong trào phản kháng hãy còn nhỏ, Karman và các đồng bào của chị đã bị đánh đập
nhiều lần bởi bọn côn đồ thân chính phủ. Khi phong trào của chị lớn lên, chị thất
vọng về những phản ứng cảnh giác của nhiều người phương Tây. Sau khi chị được
thả khỏi tù, Karman nói, các quan chức Liên hiệp châu Âu và các bạn ở Đại sứ Mỹ
đã xin chị hãy ngừng chống đối. Karman nói về một quan chức E.U “Ông ấy bảo tôi, ‘Tawakkol, việc này sẽ xấu
cho Yemen,
nó sẽ dẫn đến hỗn loạn.’”
Tôi hỏi về Saleh và các lực
lượng dàn ra để chống lại chị. Lúc đó, những người biểu tình bên ngoài Đại học
Sanaa gây ấn tượng mạnh nhưng còn lâu mới đủ lớn để đe dọa chế độ. Chị trả lời
bằng cách nói hơi quá “bây giờ chúng tôi đang ở giai đoạn cuối cùng,” chị nói,
“Anh sẽ thấy! Cần một thời gian nữa. Nhưng chúng tôi sẽ làm cuộc cách mạng của
chúng tôi. Chúng tôi sẽ làm, hoặc chúng tôi sẽ chết trong cố gắng”
Tôi nhắc lại lời hứa của
Saleh, khoảng một tuần trước, là sẽ rời khỏi chức vụ vào năm 2013. Vậy có gì phải
đấu tranh nữa?
“Không ai tin ông ta,”
Karman nói. “Trước đây ông ta đã nói dối. Chúng tôi cũng không thể dựa vào các
đảng đối lập. Họ đã thỏa hiệp quá nhiều. Còn Saleh đấy thì không thể có thay đổi
nào hết. Yêu cầu đầu tiên của chúng tôi, và yêu cầu cuối cùng của chúng tôi, là
Saleh từ chức.”
Karman vừa nhắc đến lần
trước Saleh đã tuyên bố ý định rút lui của ông ta - năm 2005, ngay trước cuộc bầu
cử Tổng thống. Thế nhưng ông ta đã tranh cử và thắng, với bảy mươi bảy phần
trăm số phiếu bầu. Karman lo rằng nếu Saleh không chịu từ chức ngay ông ta có
thể sau đó khăng khăng đòi ở lại quá cả nhiệm kỳ của ông ta, hoặc chuyển giao
quyền lực cho con ông ta, hoặc bố trí cho một kẻ kế tục do ông ta chọn sẵn để
tiếp quản.
Những cuộc tấn công của
Karman vào Saleh làm nổi bật một trong những điều kỳ lạ trung tâm của chế độ Yemen:
nó đàn áp không đều. Karman đã bị bắt giữ, nhưng chị đã không bị giết hay thậm
chí mòn mỏi trong tù. Các báo bị đóng cửa, và các đối thủ chính trị bị tra tấn
hoặc bị giết, đặc biệt ở miền nam. Nhưng nhà nước Yemen tương đối bao dung với những
người bất đồng chính kiến. Mùa đông vừa qua, Saleh, trái với một số lãnh đạo
Trung Đông khác, không hành hình các lãnh tụ đối lập hay chặn truy cập vào
Internet. Khi tôi nói điều này với Karman, chị trách tôi. “Xín anh đừng so sánh
chúng tôi với những nước Trung Đông khác”, chị nói. “Khi chúng tôi làm thế, anh
sẽ kết luận rằng Yemen không
đến nỗi tệ thế, bởi vì chúng tôi tốt hơn Saudi Arabia. Tôi bác bỏ điều đó.
Chúng tôi cần nhiều tự do hơn ở đây, nhiều dân chủ hơn.”
Yemen, không giống như một số
nước A rập, có một phe đối lập chính thức. Nó là một liên minh thống nhất dưới
ngọn cờ của các Đảng Tập hợp, hay là
J.M.P. Hai thành phần chính của J.M.P. là đảng Islamist của Yemen gọi là Islah, và Đảng Xã hội Chủ nghĩa Yemen.
Nhiều tháng trước khi các
cuộc biểu tình phản đối bắt đầu, J.M.P. đã đàm phán với đảng của Saleh, Đại hội
của Toàn thể Nhân dân, để vào chính quyền của ông ta, hay bảo đảm những giới hạn
quyền lực của ông ta. Những cuộc thương lượng không đi đến một kết quả rõ ràng
nào. Thế rồi cách mạng nổ ra ở Ai Cậpvà Tunisia. Những cuộc nổi dậy đó, và
cả những cuộc biểu tình ở Yemen,
khiến lãnh đạo J.M.P. sửng sốt. Tuy nhiên, thay vì tham gia vào phong trào, phe
đối lập lại đâm vào sườn nó, bằng cách cố gắng nối lại cuộc đàm phán với chính
quyền. Trong cố gắng này, J.M.P. có sự hậu thuẫn của chính quyền Obama.
Các lãnh tụ đối lập rõ
ràng sợ rằng một sự kết liễu đột ngột ách thống trị của Saleh sẽ dẫn đến vô
chính phủ, và họ không tin rằng bản thân họ đủ cố kết để điều hành nhà nước Yemen.
Nỗi sợ của họ được nhiều người Yemen
thuộc tầng lớp thương gia hưởng ứng. Vào một ngày tháng Hai, tại địa điểm cuộc
biểu tình bên ngoài trường Đại học Sanaa, tôi phát hiện ra một người đàn ông ăn
diện sang trọng, đứng trên mép sân khấu, vẻ mặt cau có khó chịu. Tên ông ta là
Yahiya Ali al-Habbari, và ông ta là chủ tịch của một công ty nhập khẩu thực phẩm
lớn của Yemen.
“Thế này không được.” Habbari nói. “Ở đây thế này thì loạn mất. Chúng ta không
thể để chuyện này xẩy ra ở đây, ở Yemen này.”
Trong một thời gian, nỗi
lo sợ đó khiến cho quy mô của các cuộc biểu tình thu hẹp lại. Trong sáu tuần đầu,
các cuộc biểu tình phản đối ở Sanaa, một thành phố có hai triệu dân, chỉ thu
hút không quá mười ngàn người. Ngay cả hôm thứ Sáu, khi những cuộc biểu tình có
thể đạt đến đỉnh cao về quy mô, chúng cũng không tác động gì đến nếp sống hằng
ngày của thủ đô.
Một số người Yemen
lo sợ rằng, nếu Saleh bị lật đổ, các lãnh tụ Islamist của liên minh đối lập sẽ
thắng thế trong chính phủ mới. Phần lớn lo ngại nhằm vào Abdul Majeed
al-Zindani, một người Islamist mà Mỹ gọi là khủng bố. Zindani là một lãnh đạo
cao cấp của Islah và đứng đầu hội đoàn lớn nhất Yemen của các giáo sĩ dòng Sunni.
Các quan chức Hoa Kỳ nói rằng ông ta đã từng là một cố vấn của Osama bin Laden,
đã tuyển mộ những người Yemen vào các trại huấn luyện của Al Qaeda, đã giúp
nhóm này mua vũ khí. Tuy nhiên nhiều người Yemen coi Zindani là một chính
khách chủ đạo. Dẫu sao, trước khi các cuộc biểu tình phản đối bắt đầu, Zindani
đã là một trong những kẻ ủng hộ đáng tin cậy nhất của Saleh.
Vào cuối tháng Hai, đám
đông bên ngoài Đại học Sanaa đã lớn lên trông thấy. Hôm mồng Một tháng Ba, có
tin đồn rằng Zindani sắp lên nói. Cho đến lúc đó, đại đa số những người biểu
tình là những người thế tục, và sự việc Zindani sắp lên nói dường như đánh dấu
một bước ngoặt trong cuộc nổi dậy. Một toán người có súng bước lên sân khấu. Rồi
Zindani xuất hiện, bộ râu của ông ta được nhuộm thành màu cam bằng lá móng [thuốc
nhuộm tóc], và tay ông ta cầm chiếc micro mà Karman đã cầm mấy tuần trước. “Thời
của Caliphate[5] đã đến!” Zindani kêu lên
“Thời của Caliphate đã đến!” Ông ta nói rằng, với tư cách là một người Islamist
và một hành viên của phe đối lập chính thức, ông ta là người đến muộn đối với
phong trào này. “Các bạn làm cho những người già như chúng tôi cảm thấy hổ thẹn,”
ông ta nói với những người biểu tình. “Các bạn làm cho tất cả những người nói họ
muốn thay đổi những không sẵn lòng làm những việc họ phải làm để điều đó xảy
ra, phải xấu hổ.”
Ông ta tiếp tục, “Đấng
Tiên tri của chúng ta đã tiên đoán rằng, một ngày nào đó, một kẻ thống trị sẽ
áp bức nhân dân, và nhân dân sẽ truất quyền hắn. Chúng ta hiện nay đang sống với
một lãnh tụ cai trị bằng bạo lực, và chúng ta cần phải đẩy ông ta ra. Sau khi
chúng ta thanh toán kẻ áp bức này, sẽ có công bằng - và caliphate.”
Đám đông hoan hô, mặc dầu
không thể nói rằng đó là hoan hô tất cả những lời Zindani nói ra, hay chỉ một
vài lời trong đó. Zindani bước xuống khỏi sân khấu, và ra đi, cùng với những
tay súng của ông ta.
Vài phút sau, tôi phát hiện
ra Karman, và chúng tôi cùng chui vào một cái lều gần sân khấu. Chị đang giận dữ.
“Chúng tôi đã cãi nhau rất to về Zindani, về việc có nên để cho ông ta làm thế
không,” chị nói. “Tôi phản đối. Đây là một phong trào thanh niên, không phải
phong trào tôn giáo.”
Những người biểu tình tụ
tập bên ngoài Đại học Sanaa gặp một thế lưỡng nan: bản thân họ không phải là đại
diện của nguyện vọng của hai mươi ba triệu nhân dân Yemen, nhưng, phong trào
càng lớn lên, nó càng có nguy cơ trở thành Islamist. Bảy mươi phần trăm dân Yemen
sống ở nông thôn, và phần lớn hết sức mộ đạo.
Karman suy luận rằng
Zindani đã tự nguyện nói trong cuộc biểu tình theo lệnh của chế độ Saleh, để
làm mất uy tín của phong trào. Điều khẳng định này, dù bí ẩn, dường như có lý.
Vì tất cả những lời tâm huyết trong bài nói của Zindani, ông ta không hề kêu gọi
Saleh từ chức. Karman coi việc phương Tây dán nhãn cho Zindani là một người
Islamist đặc biệt là một sự vô lý. “Những kẻ Islamist thật sự nằm trong chính
quyền,” chị nói, “Saleh để cho Al Qaeda sống vì nó thu hút sự chú ý của Mỹ. Ông
ta gặp gỡ bọn Al Qaeda. Ông ta giúp chúng. Saleh và Zindani gần gũi nhau đến mức
ghê tởm! Chính phủ đã nói gì về tôi trong sáu tuần qua? Rằng tôi đang làm bại
hoại đạo đức của phụ nữ Yemen,
rằng tôi đang chống lại luật Chúa. Anh muốn có bọn Islamist trong chính quyền
à? Anh đã có rồi đấy.”
Cho đến khi chết, năm
2007, Abdullah al-Ahmar là người đứng đầu Hashids, liên minh bộ lạc mạnh nhất
Yemen, các thành viên của nó chủ yếu sống ở miền bắc. Trong nhiều thập kỷ,
Ahmar, người được gọi là “tù trưởng của các tù trưởng,” hoạt động như một cái
bóng của Tổng thống, làm việc với Saleh để vỗ yên các lãnh đạo bộ lạc. Đa số
người Yemen cho rằng Ahmar
đã nhận hàng triệu từ Saudi để giữ yên Yemen. Về mặt nào đó, ông ta mạnh
ngang với Saleh, ông ta là phát ngôn của nghị viện trong hơn một thập kỷ, nhưng
ông ta cố ý núp dưới cái bóng của Tổng thống. Là một người miền bắc, ông ta cẩn
trọng không làm nghiêng cán cân quyền lực giữa miền bắc và miền nam, vì như thế
có thể dẫn đến nội chiến.
Từ khi Ahmar chết, chín
người con trai của ông ta đã chiếm lấy quyền lãnh đạo trong bộ tộc, và họ không
cảm thấy bị kiềm chế bởi các truyền thống của cha mình. Khi cuộc nổi dậy ở Yemen
bắt đầu, hai trong số mấy người con, Hussein and Hameed, đã chuyển sang ủng hộ
những người chống đối, và tham gia kêu gọi Saleh từ chức.
Người con ấp ủ tham vọng
sâu xa nhất là Hameed, con thứ ba, ba mươi chín tuổi. Hồi tháng Hai, tôi đến
thăm anh ta tại nhà ở Sanaa. Nó giống như hang ổ của một chỉ huy quân sự ở Afghanistan:
một ngôi biệt thự bằng gạch và đá hoa bao quanh bởi những bức tường đá cao hơn
bốn mét, và một trăm người mang súng. Các trạm gác bên ngoài ngôi nhà có một
vòng lính gác với súng máy có giá đỡ bao quanh. Mới một tuần trước khi tôi đến
gặp, đội bảo vệ của Hameed đã kéo đến nhà Noman Dowaid - tổng trấn Sanaa và đồng
minh của Saleh - và dùng súng máy khống chế nhà ông ta. Bạo lực vẫn luôn ở bên
lề chính trị của Yemen.
Một người hầu dẫn tôi vào
mafraj bằng đá trông như hang động - gian truyền thống nơi những người
đàn ông Yemen
ngồi bàn bạc và nhai lá khat. Sàn nhà
bằng cẩm thạch, và khi tôi bước vào phòng tiếng bước chân của tôi vang vọng.
Sau vài phút, Hameed xuất hiện trong chiếc khăn xếp (turban) và chiếc thawb trắng
- áo choàng đàn ông theo phong tục Yemen; một thanh gươm jumbiya to đùng trong chiếc vỏ màu
xanh cây sáng lấp lánh, được giắt vào một chiếc thắt lưng màu vàng. Người ta đã
nói với tôi, trang phục truyền thống của Hameed chỉ để đánh lừa. Anh ta là một
người Islamist đã công khai thú nhận, nhưng anh ta nói tiếng Anh tuyệt hảo, hồi
còn nhỏ đã nhiều lần nghỉ hè ở London.
Anh ta là một trong vài tỷ phú của Yemen. Người ta không chỉ nói về việc
anh ta và bộ lạc của anh nhận những khoản trợ cấp khổng lồ của Saudi; mà với sự
giúp đỡ của tập đoàn truyền thông Orascom của Ai Cập, anh ta còn xây dựng được
một mạng lưới điện thoại di động thành công nhất ở Yemen. (Hameed cuối cùng đã trục xuất
người của Orascom khỏi Yemen
và chấm dứt quan hệ đối tác.) Một lãnh tụ chính trị Yemen
nói với tôi rằng Hameed có thể trở thành người Yemen tương đương với Rafik Hariri
- ông trùm tư bản ngành xây dựng đã giúp tái thiết Libanon sau nội chiến.
Lúc đó là cuối buổi chiều,
thời gian truyền thống để nhai lá khat
trong ngày, và má bên phải của Hameed phồng tướng lên. Ngôi bên cạnh tôi, anh
ta thận trọng nói về những tham vọng của mình. “Mục tiêu của tôi không phải là
làm Tổng thống,” anh ta nói. Chức vụ đó, phải là dành cho người ở miền nam, để
khỏi chia cắt Yemen
một lần nữa. Mục tiêu chính trị của anh ta là giúp xây dựng “một nền dân chủ mạnh,
với những thiết chế thật sự và cai trị bằng luật pháp.”
Tuy nhiên, khi câu chuyện
quay sang Saleh, sự dè dặt của Hameed tan biến thành phân tích bóng bẩy. “Người
này, Saleh, ông ta không bao giờ có một suy nghĩ hay tầm nhìn chiến lược - chiến
lược của ông ta từ ngày đầu chỉ là duy trì quyền lực.” Hameed nói. “Cái khôn
ngoan của ông ta là làm cho các bộ lạc luôn luôn cần ông ta, là làm cho họ đánh
lẫn nhau, sao cho họ cần đến vũ khí của ông ta. Bộ lạc này đánh bộ lạc kia, và
chỉ có Saleh là người duy nhất có thể giúp họ. Khôn thật.”
.
Một người hầu đặt xuống một
đĩa quả hạnh và bánh baklava. Đồ ăn
này là để mời tôi, mồm Hameed còn đang bận rộn với lá khat, thứ lá này làm người ta hết muốn ăn. Anh ta tiếp tục, “Tôi
tin rằng Tổng thống đã có một tuổi thơ rất bất hạnh - có lẽ là một tuổi thơ bất
hạnh nhất trong lịch sử. Và ông ta đã dùng cả cuộc đời mình để trả thù người
khác vì tuổi thơ khốn khổ của ông ta. Điều
này giải thích tính cách của Saleh. Saleh chưa bao giờ thấy hạnh phúc như khi
ông ta có một người mạnh mẽ trước mặt ông ta, quỳ gối, xin tha mạng. Đó là điều
làm cho Saleh thật sự hạnh phúc.”
Những lời chỉ trích gắt
gao của Hameed hình như bộc bộc nhiều về bản thân anh ta hơn là về Saleh. “Khi
anh ngồi với ông ta, ông ta là một người dễ mến, anh có những quan hệ tốt với
ông ta,” Hameed tiếp tục. “Ông ta là một tính cách tuyệt hảo. Ông ta thích thoải
mái, ông ta thích đến những chỗ vui vẻ. Ông ta uống rượu. Ông ta sáu mươi,
nhưng nếu đi ra nước ngoài ông ta luôn mang theo Viagra trong túi.”
Chẳng bao lâu nữa, anh ta
nói, anh ta sẽ không còn khả năng ngăn các thành viên của bộ lạc không đến cuộc
phòng thủ của những người Yemen
trên đường phố. (Vài ngày sau, Husein anh của Hameed nói trước hàng ngàn người
dân bộ lạc tại một cuộc tập hợp ở Amran, một thị trấn tây bắc Sanaa, kêu gọi họ
đến Sanaa để chống những người biểu tình.)
“Không dễ đẩy người dân đến
chỗ muốn bị giết, nhưng Tổng thống đã làm điều đó,” Hameed nói. “Khi Tổng thống
bắt đầu gây ra hỗn loạn trên đường phố, lúc đó sẽ là không có đường quay về.”
Ở Yemen, điều giả định phổ biến nhất
về Hameed là anh ta sẽ cố gắng trở thành Phó Tổng thống hoặc Thủ tướng, một
cương vị cho phép anh ta nắm được quyền lực rất lớn từ sau hậu trường. Dù chuyện
gì xảy ra, hình như Hameed cũng đã chuẩn bị bản thân trước những thay đổi. “Anh
không biết sự thể rồi sẽ ra thế nào” anh ta nói. “Có thể sẽ có một khoảng trống
bất ngờ. Và cần đến một lãnh đạo mạnh.”
Vào ngày 17 tháng 12 năm
2009, trên mảnh đất Yemen vô luật pháp, làng Al Majalah bị phá hủy bởi một loạt
những đợt tấn công quân sự. Trong một tuyên bố đưa ra cùng ngày, chính phủ
Yemen loan báo rằng lực lượng không quân của nó đã tiến hành những đợt tấn công
chống những trại của bọn tình nghi Al Qaeda, giết ba mươi tư chiến binh. Chính phủ nhận xét rằng Mỹ đã tham gia
công tác tình báo với chính phủ Saleh, nhưng không thừa nhận có sự dính líu
khác của Mỹ.
Trong mấy tháng sau đó,
tuyên bố của Yemen
lộ ra một sự dối trá. Thật ra, những cuộc tấn công ấy đã được tiến hành bằng những
tên lửa đầu đạn hạt nhân tầm thấp Tomahawk. Hơn nữa, những người sống sót sau
cuộc tấn công nhất quyết khẳng định nạn nhân hầu hết là dân thường.
Cuộc oanh tạc Al Majalah
là một trong những chiến dịch của Mỹ chống Al Qaeda được tiến hành dưới một thỏa
thuận bí mật với chính phủ Yemen.
Một quan chức Mỹ biết về cuộc tấn công này xác nhận rằng, năm 2009 và 2010, Mỹ
đã thực hiện ít nhất bốn cuộc không kích ở Yemen. Những chiến dịch này, trong
đó có hai xẩy ra trong cùng một tháng với âm mưu đánh bom thất bại dịp lễ Giáng
sinh, là những cuộc tấn công lớn đầu tiên do Mỹ dẫn đầu, ở Yemen kể từ tháng Mười
Một 2002, khi Salim Sinan al-Harethi, một kẻ bị tình nghi là lãnh đạo Al Qaeda,
bị giết trong chiếc xe của y bởi tên lửa Hellfire bắn từ một máy bay không người
lái Predator.
Trong khi đó có khoảng một
ngàn người Yemen
đang được huấn luyện trong chương trình của Mỹ được thiết kế để giúp chế độ
Saleh đánh khủng bố. Các quan chức Yemen nói rằng họ tự hào về những cố
gắng của chính phủ nước họ trong cuộc chiến chống Al Qaeda. Abu Bakr al-Qirbi,
bộ trưởng ngoại giao Yemen, nói với tôi rằng trong năm qua các lực lượng an
ninh Yemen đã mất bẩy mươi người trong cuộc chiến chống Al Qaeda. “chúng tôi đã
chịu những tổn thất thật sự,” ông ta nói.
Những điều khoản chính
xác trong hiệp ước giữa quân đội Mỹ và chính phủ Yemen là mờ ám. Theo một trong những
bức mật điện ngoại giao được WikiLeaks tiết lộ, đầu năm 2010 Saleh đã gặp
Petraeus và nói với viên tướng Mỹ này rằng ông ta sẽ tiếp tục xuyên tạc những
chiến dịch như chiến dịch ở Majalah. “Chúng tôi tiếp tục nói rằng bom là của
chúng tôi, không phải của các ông,” ông ta nói.
Tuy nhiên, mặc dầu Saleh
đã hứa hợp tác, ông ta đã lặng lẽ đảo ngược lập trường của mình. Sự thay đổi
này có thể thấy vào tháng Năm vừa rồi, sau một cuộc không kích nhằm vào các chiến
binh Al Qaeda giết Jabir al-Shabwani, phó tổng trấn Marib, ở trung phần Yemen.
Theo quan điểm của báo chí Yemen,
Shabwani bị giết ở một làng gần nhà ông ta, nơi ông ta đang gặp các chiến binh
Al Qaeda.
Hồi đó, chính phủ Yemen
thừa nhận đã tham gia vào chiến dịch và hứa điều tra. Nó đã hoàn toàn im lặng từ
bấy đến giờ. Cái chết của Shabwani khiến các thành viên bộ lạc của ông ta,
Abeida, tức giận đến nỗi họ đã nhiều lần đọ súng với các lực lượng an ninh Yemen.
Vị quan chức cao cấp của
chính quyền nói với tôi rằng sự hiện diện của Shabwani trong một cuộc họp của
Al Qaeda cho thấy ông ta có quan hệ sâu với nhóm này: “Chúng tôi biết rằng một
số quan chức địa phương đã duy trì mối quan hệ với Al Qaeda và đã dành cho
chúng nơi ẩn náu an toàn.”
Từ đó đến nay không có
chiến dịch nào do Mỹ dẫn đầu. Các quan chức phương Tây nói rằng những cố gắng
như thế “về cơ bản đã chấm dứt” Vị quan chức cao cấp của chính quyền nói “Chúng
tôi đang cố gắng đánh giá, trong tình trạng rối loạn chính trị ở đây, làm thế
nào chúng tôi có thể tiếp tục theo đuổi những hoạt động chống khủng bố theo
cách nó không gây thêm rắc rối và hỗn loạn,” Ông ta thêm, “Điều lo ngại là
chính phủ đang mất dần kiểm soát đối với các vùng xa xôi hẻo lánh.”
Trong khi đó, những đơn vị
chống khủng bố của chính Saleh, với tất cả tiền bạc và huấn luyện họ đã nhận được,
đang thực hiện rất ít, vị quan chức phương Tây nói vớ tôi: “Vấn đề là, họ thực
sự tồi tệ. Về cơ bản đó chỉ là toán côn đồ này đánh nhau với toán côn đồ khác
mà thôi.” Vị quan chức cao cấp của chính quyền nói về các lực lượng của Yemen
“họ không làm đủ như họ đáng ra phải làm,” nhưng nhấn mạnh rằng cố gắng này vẫn
còn là mới. “Cần phải có thời gian,” ông ta nói. “Cần có huấn luyện, cổ vũ và
kích động.”
Tình trạng tương đối kém
hoạt động của các lực lượng Mỹ và Yemen nói lên rằng, trong năm qua, hầu như
không có chiến dịch quân sự nào lớn chống những nguy cơ Al Qaeda, ít nhất,
không có gì được tiết lộ công khai. Về bảy mươi người Yemen chết mà bộ trưởng ngoại giao nêu lên, vị
quan chức phương Tây nói phần lớn những người này bị chết trong những cuộc tấn
công của bọn Al Qaeda vào các lực lượng Yemen.
Một số quan sát viên của Yemen
sợ rằng ý đồ thực của Saleh là sử dụng các lực lượng chống khủng bố do Mỹ huấn
luyện để chống những đối thủ trong nước, kể cả những người biểu tình bất bạo động.
Như một sĩ quan quân đội Mỹ diễn tả, Saleh ít quan tâm đến việc “theo dõi bọn xấu”
hơn là đến “bảo vệ người cai ngục.”
Hồi tháng Ba tôi có nói
chuyện với một số người sống sót sau vụ tấn công vào Al Majalah. Tôi gặp họ ở Aden tại khách sạn
Mercure, một resort bên bờ biển với cảnh nhìn ra Biển Arab. Khách sạn này do
gia đình bin Laden sở hữu, và gần nơi U.S.S Cole bị đánh bom.
Hussein Abdullah, người
chăn gia súc, nói với tôi rằng lúc ấy ông đang chăn một đàn dê và lạc đà thì Al
Majalah bị đánh. Ông nhớ lại đang nằm trong lều nửa thức nửa ngủ, thì có một luồng
sáng rất mạnh. “Bầu trời sáng trắng ra,” Abdullah nói. “Mọi vật bỗng nhiên biến
mất.” Ông bị đánh bất tỉnh, và khi tỉnh ra, ông thấy vợ ông đang chạy về phía
ông. “Và khi bà ấy ôm chầm lấy tôi tôi thấy toàn là máu,” ông nói. Bà ấy chết,
con gái của ông cũng chết, chỉ có đứa con bé tí còn sống.
Tôi cũng gặp Fatima Ali
mười lăm tuổi, cô gấp ống tay áo choàng lên, để lộ ra những vết cháy ghê gớm. Một
cô gái khác cho tôi thấy bàn tay cô mất một ngón. Cô đã mất mẹ trong cuộc đột
kích ấy.
Sáu tháng sau, Tổ chức Ân
xá Quốc tế đưa ra những tấm ảnh của Al Majalah cho thấy một quả bom mẹ Mỹ và một
bộ phận đẩy từ một tên lửa Tomahawk. Một cuộc điều tra sau đó do quốc hội Yemen
tiến hành tìm thấy mười bốn chiến binh Al Qaeda đã bị giết trong cuộc tấn công,
cùng với bốn mươi mốt dân thường, trong đó có hai mươi ba trẻ em.
Saleh bin Farid
al-Aulaki, thành viên ủy ban [điều tra]
của quốc hội, nói với tôi rằng sau đó ông đã gặp Saleh, ông này đã xin lỗi về vụ
thảm sát. “Ông ấy bảo tôi rằng chính phủ có những tin xấu” Alawki nói.
Một quan chức Mỹ nói rằng
máy bay do thám đã xác nhận rằng Al Majalah là một trại huấn luyện chiến binh.
“Tôi thấy rất nhẹ nhõm về việc đó,” ông nói. Nhưng ông băn khoăn về những thường
dân bị chết. “Đó là một hậu quả khủng khiếp” vị quan chức nói. “Không ai muốn
thế.”
Không lâu sau cuộc tấn
công ấy, Abdulelah Hider Shaea, một nhà báo của hãng tin nhà nước, Saba, đặt dấu hỏi nghi ngờ những tuyên bố ban đầu của
chính phủ. Xuất hiện trên Al Jazeera, Shaea khẳng định rằng các thường dân đã bị
giết, và rằng cuộc tấn công rất có thể dính líu đến những tên lửa đầu đạn hạt
nhân tầm thấp của Mỹ. Anh cũng nói những nhận xét tương tự trong những buổi
phát hình sau đó.
Tháng Tám mới rồi, nhà cầm
quyền Yemen
bao vây nhà ở của Shaea và bắt anh đưa đi. Trong một tháng không có tin tức gì
về tung tích của anh. Cuối cùng, chính phủ mới bộc lộ rằng Shaea đã bị kết tội
là thành viên của Al Qaeda.
Shaea đã công bố nhiều
bài báo về Al Qaeda, trong đó có một bài phỏng vấn Awlaki, người giáo sĩ Mỹ gốc
Yemen.
(Những câu hỏi của anh thẳng thắn và không biểu lộ cảm tình gì với nhóm này.)
Saeed Thabit, trưởng văn phòng của Al Jazeera ở Sanaa, nói rằng Shaea đã duy
trì những quan hệ với nhân viên Al Qaeda nhưng không phải là một kẻ cực đoan.
“Anh ấy chỉ là một nhà báo tốt.”
Sau một phiên tòa ngắn,
Shaea bị kết án năm năm tù. Theo luật sư của anh, Abdul Rehman Ali Barman, và đối
với nhiều nhà báo tham dự phiên tòa, chứng cớ buộc tội anh là quá mỏng. Công tố
kêu rằng ông ta thấy trong laptop của Shaea bản ghi cuộc nói chuyện trong đó
anh và một thành viên Al Qaeda thảo luận việc giúp đỡ những lính mới từ Somalia.
Quan toà cũng được người ta trình lên những bức ảnh chụp bên trong một khu nhà
có tường vây quanh, cho là do Shaea chụp; theo các công tố viên, bức ảnh đó xác
nhận rằng anh đã điều tra các vị trí để Al Qaeda đánh bom.
Cộng đồng các nhà báo Yemen
bắt đầu yêu cầu thả Shaea, theo Barman, anh đã bị đánh đập trong tù. Vào tháng
Giêng, Barman nói, ông nhận được tin tốt bất ngờ: Saleh có ý định tha cho
Shaea.
Một tháng sau, sau khi
Saleh tuyên bố ông ta sẽ từ chức vào năm 2013, Tổng thống Obama gọi điện cho
Saleh để chúc ông ta sức khỏe. Theo một tuyên bố của Nhà Trắng, Obama còn biểu
lộ “quan ngại” về khả năng thả Shaea. Bản tuyên bố không đưa ra chi tiết nào rõ
hơn. Shaea vẫn ở trong tù.
Vị quan chức Mỹ quen thuộc
với sự cố Al Majalah nói rằng các quan chức Mỹ và Yemen đã làm việc với nhau để thu xếp
một vụ án chống Shaea. Các bằng chứng mật, vị cựu quan chức nói, chứng tỏ rằng
Shaea thật ra có hợp tác với Al Qaeda. “Tôi tin rằng anh ta là một gián điệp,”
vị quan chức Mỹ nói. Nhưng bằng chứng này không được trình ra trước tòa. Vụ
Shaea có thể là một ví dụ rối rắm nhất về tốc ký (shorthand) tồn tại giữa chính
quyền Obama và chế độ Saleh.
So sánh với các sự kiện xảy
ra ở Tunisia và Ai Cập, cao
điểm ở Yemen
đến chậm. Ngay từ đầu, những người biểu tình đã bắt chước thái độ của những người đồng cảnh ngộ ở Cairo: ở ngoài rìa khu vực
biểu tình, những thanh niên lễ phép vỗ vào lưng bất kỳ ai muốn tham gia. Quảng
trường bên ngoài Đại học Sanaa được đặt một cái tên mới: Quảng trường Thay đổi.
Những người biểu tình bắt đầu dùng từ “cách mạng,” báo trước - một cách ngây
thơ - rằng Yemen
sẽ mất đi nhà độc tài của nó theo cách Ai Cập: một cách hòa bình, dễ dàng và
nhanh chóng.
Trong mấy tuần đầu tiên,
những người biểu tình không làm gì hơn ngồi quanh và chuyện phiếm. Một hôm vào
tháng Hai, tôi nghe thấy một người trong số họ hỏi bạn một cách vu vơ, “Đã từ
chức chửa?” Mỗi buổi chiều, các thanh niên chở những xe cút kít chất đầy lá
khat đến cho những người biểu tình. Một ai đó đã dựng một tấm bạt lò xo (để
nhào lộn) ngay cạnh quảng trường.
.
Nhưng những người biểu
tình đã không bỏ cuộc, và, cuối cùng, các đám đông lớn lên, ở Sanaa, ở Taiz, ở
Aden, ở Ibb. Số người tham gia tăng vọt một tuần sau ngày 13 tháng Hai, khi cảnh
sát ở Aden giết
chết ít nhất mười người biểu tình. Trong vòng hai tuần kế tiếp, mười ba thành
viên của quốc hội, tất cả thuộc đảng của Saleh, từ chức để phản đối.
Một trong số họ là Abd
al-Bari Dughaish, một nhà thần kinh học ở Aden.
Cuối tháng Hai, tôi gặp ông để uống trà ở khách sạn Sheba, Sanaa. Dughaish lớn lên ở
vùng hồi đó là Nam Yemen, vào hồi ấy nó là một nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ông
đã vào học trường Y ở Đông Đức, và chứng kiến sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản.
“Tôi vẫn là một người xã hội chủ nghĩa,” ông nói. Ông mặc com lê và thắt cà vạt.
Trong nhiều năm, Dughaish
đã cảm thấy rằng hình ảnh Saleh trong nghị viện về thực chất là thối nát. “Tôi
là thành viên của một nền dân chủ giả mạo,” Dughaish nói. Bất kỳ lúc nào có một
chuyện gì đó để bỏ phiếu, chúng tôi đều bỏ phiếu tán thành. Phần lớn những
thành viên khác không để ý, họ chỉ cần vơ lấy tiền lương của họ. Tôi ghét bản
thân về chuyện đó, nhưng dù sao tôi vẫn cứ làm thế.”
Dughaish nói với tôi rằng
ông có lẽ nhạy cảm hơn đối với những sự tàn bạo của chế độ Saleh bởi vì ông đến
từ miền nam, nơi nhiều người Yemen đã
thúc đẩy ly khai, và bởi vì kinh nghiệm của ông ở Đông Đức khiến ông nhìn thấy
rõ hơn một chế độ độc tài khác cố liều lĩnh bám chặt lấy quyền lực. Mặc dầu là
thành viên của đảng cầm quyền, Dughaish đôi khi vẫn viết những mẩu ý kiến cho Al Ayyam, tờ nhật báo của Aden thường chỉ
trích gay gắt Saleh.
Trong nhiều năm, Dughaish
tự nhủ ông đang làm cho chế độ này trở nên nhân đạo hơn. Tôi là một trong những
người cố gắng mang lại thay đổi bên trong ngôi nhà chúng tôi đang sống,” ông
nói. Nhưng sự thật là, tôi không phải là một người can đảm. Tôi là một kẻ hèn
nhát.”
Một chuỗi sự kiện đã làm
ông thay đổi. Tháng năm 2009, Al Ayyam
bị chính phủ đóng cửa, và bẩy tháng sau, ông chủ báo Hisham Basharheel bị bắt
vì cáo buộc giết người. Dughaish nói, nhiều người tin rằng lời cáo buộc này là
do chính phủ dựng lên. Tháng Bảy, 2010,
anh của Dughaish là Mohammed bị giết gần Aden.
Mohammed là người đã phê phán Saleh. Mặc dầu Dughaish không chứng minh được,
ông tin rằng anh của ông bị chế độ này giết.
Thế rồi các công dân
Tunusia vùng dậy, và những cuộc biểu tình bên ngoài Đại học Sanaa bắt đầu. Lúc
đầu, Dughaish xem những cuộc biểu tình ấy trên truyền hình - không phải trên
kênh chính thức của nhà nước, mà trên Al Jazeera và TV Suhail, một đài thuộc sở
hữu của Hameed al-Ahmar, một người Isalmist tỉ phú, và phát sóng từ Ấn Độ.
(Trong suốt cuộc nổi dậy, truyền hình nhà nước chỉ phát đi những trò đố vui và
những phim tài liệu về động vật hoang dã.) “Các bạn trẻ tiếp cho tôi can đảm,”
Dughaish nói.”Họ mang đến cho chúng tôi một thực tế mới.”
Ngày 16 tháng Hai, cảnh
sát chống bạo động ở Aden
giết hai người biểu tình. Daghaish điên tiết. Nhưng ông vẫn chưa sẵn sàng từ bỏ.
Sau đó ông được phó tổng thống Abdo Rabo Mansour Hadi, triệu tập, ông này cũng
là người miền nam. Hadi yêu cầu Dughaish đến Aden để giúp làm nguôi dân chúng. “Khi tôi đến
Aden, tôi thấy
tận mắt những gì chế độ đã làm.” Daghaish nói với tôi. “Tôi thấy những người bị
giết. Tôi thấy gia đình họ. Tôi thấy những tòa nhà bị cháy.”
Hai ngày sau, cảnh sát giết
thêm bốn người nữa ở Aden.
Hôm mười chín, Dughaish đưa đơn từ chức và sẵn sàng đối mặt với một làn sóng
phê phán. Ngược lại, ông nói với tôi, ông bị chìm ngập trong những lời khen, nhận
được hàng trăm cú điện thoại và hàng ngàn e-mail chào mừng ông. “Người ta bảo,
“Bari, chúng
tôi đã đợi ông lâu rồi. Trước đây ông ở chỗ không tôt.”
Qui mô những đám đông bên
ngoài đại học Sanaa bắt đầu tăng vọt - từ một lên ba ngàn, từ mười lên ba mươi
ngàn. Saleh đưa đến những bọn mặc thường phục với gậy gộc dùi cui và cuối cùng
, súng. Những người biểu tình bị đánh đập, bị ném đã và bị bắn. Nhưng sự tàn bạo
đem lại kết quả ngược, làm điên tiết số lớn người Yemen và đẩy họ xuống đường.
Cuối tháng Hai, mười một
thanh niên Yemen
được mời đến gặp Saleh ở cung điện và bày tỏ những nỗi bất bình. Một trong những
vị khách là Shatha al-Harazi, một phóng viên hai mươi lăm tuổi của tờ Yemen Times, một tờ báo tiếng Anh. Tại một
tiệm cà phê ở Sanaa, tôi đã gặp Harazi và hai người khác đã tham gia cuộc gặp
nói trên.
Harazi xem ra cũng hiện đại
và sôi sục như Tawakkol Karman. Lúc đầu, cô nói, cô không muốn gặp Saleh, nghĩ
rằng như thế là vô ích. Sau nhiều cuộc tranh luận với các bạn, cô quyết định
đi, nhưng thề với mình rằng nếu cô có dịp để nói trực tiếp với Tổng thống cô sẽ
nói với ông ta đúng những điều cô nghĩ.
Lúc đầu cuộc gặp, Saleh tỏ
ra nhã nhặn và tự kiềm chế. Rồi những người khách bắt đầu nói, và mỗi người đưa
cho Tổng thống cùng một thông điệp: chế độ của ông là thối nát, tàn bạo, không
đại diện cho ai cả, và thanh niên không có tiền đồ nào hết. Harazi nói vói tôi,
ban đầu Saleh nói ông ta đồng ý với những người phản đối - quá nhiều quan chức
của ông ta ăn hối lộ, quá ít thanh niên có thể tìm được việc làm. Nhưng khi cuộc
thảo luận tiếp diễn, Saleeh càng lúc càng trở nên giận dữ trông thấy. Harazi,
người nói thứ ba, ngoan cường “Tôi bảo ông ta nên từ chức,” cô nói.
Sau khi người thứ sáu nói
cùng những lời phàn nàn như thế, Saleh dường như khùng lên. “Thôi được!” Tổng
thống thét lên. “Tôi tham nhũng. Tất cả mọi người xung quanh tôi tham nhũng.
Tôi thích những người tham nhũng!”
Ông ta bỗng dứng bật dậy. “Tôi không thay đổi một cái gì cả.” ông ta nói. “Mọi
việc cứ như cũ.”
Nhưng Saleh đang mất kiểm
soát. Ngay cả chiến thuật ưa thích của ông ta - mua chuộc bằng tiền - cũng bắt
đầu làm ông thất bại. Một đêm tháng Ba, khi đi giữa những người biểu tình, tôi
vào một căn lều lớn và ngồi xuống với một nhóm lãnh đạo các bộ lạc. Họ đã đi từ
Marib đến Sanaa. Sự có mặt của họ chứng tỏ rằng những cuộc biểu tình không còn
chỉ lôi kéo những người trẻ, thành thị, và có học. Saleh và những người thân cận
ông ta khẳng định rằng những người dân các bộ lạc đang tràn về Sanaa và đã được
trả bởi những nhà hảo tâm giàu có - đặc biệt là bởi Hameed al-Ahmar.
Ahmed al-Zaidi, một lãnh
đạo của bộ lạc Bin Jaber, nói. “Tôi đến đây bởi vì trong huyện của tôi chẳng có
phát triển gì cả, - không điện, không trường học, không nước, không có gì hết.”
Marib là một trong những vùng dầu mỏ chủ yếu của Yemen. “Vậy tiền chạy đi đâu cả?”
ông hỏi.
Zaidi ngồi trong một hình
bán nguyệt với khoảng một tá người đi theo. Mặc dầu nhóm của ông nhỏ, nó là một
biểu tượng của sự bất bình đang lan rộng, và nó làm nhà cầm quyền hoảng sợ. Trước
đó một ngày, ông nói với tôi, một phái viên từ phủ Saleh đã gọi điện và ngỏ ý muốn
đưa ông mười triệu rial - khoảng năm mươi ngàn đô la - để ông rời khỏi thủ đô.
Ông từ chối. Ngày hôm sau, một phái viên khác đến quảng trường gặp ông, lần
này, ông ta hứa đưa nửa trệu đô la. “Tôi nói với ông ta tôi không bán mình,”
Zaidi nói.
Zaidi nói một số già làng
trong bộ lạc của ông vẫn còn nhận những khoản tiền lớn từ Saleh và từ Saudi.
Nhưng việc nhận tiền của chính phủ ngày càng bị phản đối. Zaidi gải thích, “Những
lãnh đạo bộ lạc làm thế đã không còn được nhân dân tôn trọng nữa.”
Ở một góc khác của lều,
nhiều thanh niên Yemen
đang tụ tập xung quanh một người đàn ông ăn mặc thanh lịch ngồi trên sàn. Ông
là một đại tá quân đội tên là Murad al-Muradi, và ông mới bỏ ngũ ba mươi phút
trước. Ông nói, Saleh đã nắm chính quyền quá lâu.
Một trong những hậu quả
đáng lo ngại nhất nếu Saleh ra đi là quân đội rã ra thành nhiều bè cánh đối địch
nhau, điều này có thể gây nên một cuộc nội chiến toàn lực. Đại tá Muradi tuyên
bố rằng những rận nứt đã trông thấy rõ. “Nhiều sĩ quan còn ở lại với Saleh,
nhưng ngày càng nhiều người quay đi” ông nói với tôi. “Các bánh xe lịch sử đang
quay.” Những người Yemen
xung quanh ông gật đầu. “Nhân dân sẽ không lùi bước.”
Ngày 18 tháng Ba, khoảng
một tuần sau ngày Saleh đọc diễn văn trên Sân vận động Cách mạng, những tay bắn
tỉa tiến hành một cuộc thảm sát trên quảng trường ở Sanaa, giết ít nhất năm
mươi hai người, và làm bị thương hai trăm. Những người ủng hộ Saleh tràn qua quảng
trường, bắn vào lều của những người biểu tình. Bọn bắn tỉa đã chiếm những vị
trí trong những tòa nhà trong một con phố dẫn vào quảng trường. Khi cuộc bắn
súng nổ ra, đám đông tràn lên - về phía đang bắn.
Adel al-Shami, một người
biểu tình bị thương ở thân nói về bọn bắn tỉa, “Chúng đã bắn nhân dân vào đầu,
vào cố, vào mắt.”
Tôi thấy Shami, hai mươi
bẩy tuổi, bên trong nhà thờ của trường đại học, nơi anh đang nghỉ cùng những
người biểu tình bị thương khác. Một số trong những tay súng đó, Shami nói, mặc
đồng phục an ninh của Yemen.
“Bọn chúng là dân chuyên nghiệp,” anh nói. “Chúng gần đến mức tôi có thể nhìn
vào mắt chúng.”
Ở Mỹ, Brennan lên án những
cuộc giết người của chính phủ Yemen bằng “những lời lẽ mạnh nhất,” nhưng vẫn
không kêu gọi Saleh từ chức. Ngoại trưởng Clinton
nói vói các phóng viên, “Về Yemen,
thông điệp của chúng ta vẫn giữ nguyên như cũ: cần phải chấm dứt bạo lực, cần
phải theo đuổi đàm phán để đạt được một giải pháp chính trị.”
Nhưng Nhà trắng, giống
như Saleh, đang bị các sự kiện vượt qua mặt. Vào đầu tháng Ba, phe đối lập cuối
cùng cũng xuống đường. Lãnh tụ đối lập không đòi tham gia chính phủ Slaeh nữa,
thay vào đó đòi ông ta từ chức. Kế hoạch của Mỹ nhằm xoa dịu những người biểu
tình thông qua những thỏa hiệp chính trị đã sụp đổ.
Yassin Noman, lãnh đạo Đảng
Xã hội chủ nghĩa, nói với tôi: “Bây giờ Saleh đang cố xoay sở. Cuộc cách mạng
này không thể bị chặn lại.”
Trong nhiều ngày sau cuộc
thăm sát ngày 18 tháng Ba, sự ủng hộ công khai đối với Saleh tụt xuống và ông
ta bị những rường cột của thiết chế chính trị Yemen bỏ rơi: Các giáo sĩ dòng
Sunni, lãnh đạo của các bộ tộc lớn nhất, và ngay cả các thành viên nội các của
ông ta. Đòn mạnh nhất đến từ quân đội, nền móng của sự thống trị của Saleh.
Trong một diễn văn ngày 21 tháng Ba, tướng Ali Mohsen al-Ahmar, sĩ quan có ảnh
hưởng nhất trong nước, là một đối tác của Saleh trong ba mươi năm, đã chối bỏ Tổng
thống, nói rằng, “Theo những điều tôi cảm thấy, và theo cảm giác của nhiều chỉ
huy và binh lính… tôi loan báo sự ủng hộ và sự hậu thuẫn hòa bình của chúng tôi
đối với cuộc cách mạng trẻ này. ”
Trong nhiều giờ, các đơn
vị quân đội trung thành với vị tướng này đã bao vây trường Đại học Sanaa, để bảo
vệ những người biểu tình khỏi bị tấn công. Trong khi đó, những binh lính vẫn
còn trung thành với Saleh, một số tên lái tăng, chiếm các vị trí xung quanh
dinh. Ngày 25 tháng Ba, một trăm ngàn người Yemen tập hợp ở trường Đại học
Sanaa - và có lẽ hàng triệu người khác tập hợp ở các thành phố khác - một cuộc
tập hợp gọi là Ngày Thứ Sáu Lên Đường.
Saleh mở cuộc thảo luận với
phái đối lập và sau đó lập tức cắt đứt chúng. “Tôi sẽ trao chính quyền vào những
bàn tay an toàn” ông ta nói trong một diễn văn. Ba ngày sau, ông ta nói trong một
bài khác rằng ông ta có sự ủng hộ của chín mươi lăm phần trăm dân chúng Yemen.
“Ai nên bỏ?” ông ta nói. “Tất nhiên thiểu số đang đe dọa đất nước.” Ông ta có vẻ
đau khổ - nhận ra rằng sự nắm quyền của ông ta đang tuột ra, nhưng sau ba thập
kỷ, không thể buông ra được. Cuối tháng Ba, ông ta ra lệnh cho phần lớn các lực
lượng an ninh vào Sanaa để bảo vệ ông
ta, kể cả những đơn vị chống khủng bố do Mỹ huấn luyện.
Sự giằng co của Slaeh được
phản chiếu ở Washington.
Vị quan chức cao cấp chính quyền nói với tôi rằng ông đang thúc đẩy Saleh để
trình ra một kế hoach chi tiết để chuyển giao quyền lực rồi ra đi. “Chúng tôi
đã làm rõ rằng cần phải có chuyển đổi, và phải bắt đầu ngay bây giờ.” Vị quan
chức nói. Kịch bản ưa thích của người Mỹ, vị quan chức nói, là Phó Tổng thống
Hadi sẽ kế tục Saleh, như được ghi trong hiến pháp Yemen.
Nhưng chắc gì Hadi đủ mạnh
để chặn đứng Zindani, viên giáo sĩ Islamist, hay Ahmar, tỉ phú Islamist, hay một
Al Qaeda được ủy quyền. “Có một khả năng có thể xảy ra là khoảng chân không quyền
lực,” vị quan chức cao cấp của chính quyền nói. “Chúng tôi muốn chắc chắn rằng
đây không phải là một cuộc thoái vị.”
6.
Cuối tháng Ba, tình trạng
vô chính phủ bắt đầu lan rộng ra khắp Yemen và chính phủ bắt đầu rút ra
khỏi những vùng bạo lực. Trong thành phố miền nam Jarr, một nhóm tay súng
Islamist chiếm toà nhà chính phủ trong một thời gian ngắn, sau khi các lực lượng
an ninh rút đi; các quan chức Yemen sau đó khẳng định rằng các tay súng này là
thành viên Al Qaeda, nhưng điều ấy không rõ ràng. Ở miền bắc, những người nổi
loạn Houthi kiểm soát thành phố Sanaa sau khi viên tổng trấn và các phụ tá bỏ
chạy. Một sự cố gây chú ý nhiều nhất,
nhà máy đạn của chính phủ ở Khanfar nổ sau khi các lực lượng an ninh rút lui và
bọn cướp tràn vào, hơn một trăm người bị giết. Trong khi đó, khủng hoảng kinh tế
Yemen
tỏ ra trầm trọng hơn. Vị quan chức phương Tây bảo tôi rằng, chế độ Saleh không
còn khả năng đảm bảo tiền vay để nhập khẩu thực phẩm nữa.
Khó nói bao nhiêu phần
hỗn loạn là thật và bao nhiêu do chính phủ hỗ trợ thêm, để làm tăng chú ý của
quốc tế. Saleh ngày càng hay gợi đến bóng ma Somalia. “Chúng tôi là một xã hội bộ
lạc,” ông ta nói với kênh truyền hình vệ tinh Al Arabia. “mọi người sẽ về phe bộ
lạc của mình, và khi đó chúng tôi sẽ đi tới kết cục là một cuộc nội chiến hủy
diệt.” Nhưng ít có bằng chứng vững chắc là các bộ lạc đang chuẩn bị đánh nhau,
hoặc Al Qaeda đang lợi dụng sự sụp đổ của Saleh. Chính phủ chắc chắn sẽ yếu hơn
nếu không có Saleh, nhưng nó đã yếu ngay từ đầu.
Theo một nghĩa nào đó,
cuộc bạo loạn ở Yemen
đã bình yên một cách lạ thường. Những người Yemen đang biểu tình chống ách thống
trị của Saleh nhìn chung đã không chuyển sang bạo lực, ngay cả khi họ bị khiêu
khích, bị thương, bị bắn và bị giết. Một ngày cuối tháng Ba, tôi đến quảng trường
đại học Sanaa để gặp Tawakkol Karman. Tôi thấy chị ngồi bên ngoài căn lều mà chị đã sống ba tuần
qua. Chồng chị đang ngồi với chị.
“Saleh bây giờ vô cùng
nguy hiểm,” Karman nói với tôi. “Chúng tôi nghĩ hắn đã chuẩn bị từ chức tuần
trước,” vào Ngày Thứ Sáu Lên Đường. “Đại sứ Mỹ cũng nghĩ thế, họ bảo chúng tôi.
Nhưng hắn không từ chức. Những người trẻ tuổi đang hết sức nản, hết sức tức giận.”
Vào Ngày Thứ Sáu Lên
Đường, các lãnh đạo chống đối đã xem xét bố trí một cuộc tuần hành trên Phủ Tổng
thống - một cố gắng buộc Saleh phải hành động. Nhiều quan sát viên, trong đó có
nhiều người Mỹ, lo ngại rằng một cuộc diễu hành như thế có thể dẫn đến đổ máu lớn,
nên những người biểu tình lại thôi. Bây giờ Karman và các đồng bào của chị cảm
thấy tiếc thời cơ đã qua.
“Chúng tôi sẽ leo
thang bằng những phương pháp hòa bình,” chị hứa. “mà không phải bạo lực.”
Quảng trường Thay đổi
giờ có cảm giác xì hơi. Các đám đông thưa dần. Một cơn giông cát bụi nổi lên
trên thành phố, trùm lấp mọi vật trong lớp bụi mờ. Nhân dân đổ tội về cơn giông
này cho Saudi, họ trách người Saudi về mọi chuyện, đặc biệt là chuyện chống đỡ
cho Saleh.
Câu chuyện quay sang
người Mỹ. “Chúng tôi thất vọng về Obama,” Karman nói với tôi. “Chúng tôi cần ở
ông ấy một tuyên bố mạnh mẽ.” Bây giờ đã mười tuần trong cuộc nổi dậy, mà chính
quyền Obama vẫn chưa công khai kêu gọi Saleh ra đi.
Ngay cả nếu Karman và
các đồng chí của chị thắng lợi trong việc đẩy Saleh khỏi quyền lực, thì dường như
rất có khả năng họ sẽ bị gạt sang một bên bởi những người Yemen được
trang bị tốt hơn để tận dụng tình trạng nhá nhem này. “Chúng tôi có một kế hoạch
chuyển tiếp,” chị nói, nhưng nó không cụ thể lắm. Chị nói với tôi rằng chị
không thật sự quan tâm đến quyền lực chính trị.
Vào hôm thứ Sáu, 1
tháng Tư, những người biểu tình chống chính phủ hẹn một đám đông lớn nhất, nhiều
vạn người Yemen đổ vào Quảng trường Thay đổi, để kêu gọi chấm dứt chế độ Saleh.
Đầu bên kia thành phố, Saleh bầy ra một cuộc tập hợp để tôn vinh ông ta, giống
với cuộc mit tinh trên sân vận động Cách mạng một tháng trước. Những người tham
gia được chở bằng xe buýt từ khắp nơi trong nước đến, và nhận khoản tiền công
thông thường hàng ngày, dưới dạng một bữa ăn, và một nhúm tiền mặt, và một túi
khat. (Vị quan chức phương Tây nói chính phủ đã tiêu đến mười bốn triệu đô la để
bày ra cuộc tập hợp của Saleh vào tuần trước.) Một người Yemen, khi được hỏi tại sao anh ta
lại đi từ thành phố Al Mahwit đến đây để hoan hô Tổng thống, chỉ nhún vai. “Tiền,”
anh ta nói.
Nghe nói, bằng mọi sự
giả tạo, Saleh tỏ ra xúc động sâu sắc bởi sự kiện này, nó thuyết phục ông ta rằng
ông ta vẫn được nhân dân Yemen
yêu mến. “Ông ta đã nghiêng về ý muốn ra đi,” vị quan chức phương Tây nói.
“Nhưng ông ta bắt đầu thay đổi ý định.”
Một ngày trong cuộc nổi
dậy, tôi gặp một trong những cố vấn của Saleh để ăn trưa ở Zorba’s, một quán rượu
nhỏ ở Hadda, trong khu vực giầu có ở Sanaa. Đó là một thời gian bận rộn ở trong
dinh và tôi cảm thấy may mắn giữ được cuộc hẹn. Người cố vấn này, đã từng có thời
gian ở Mỹ, gọi một đĩa tôm hấp và một lon Coke ăn kiêng.
Tổng thống Saleh, ông
ta bảo tôi, đã mất ham muốn làm lãnh đạo Yemen. Chỉ là ý thức nghĩa vụ giữ
ông ấy lại cương vị. “Ông ấy không muốn làm việc này nữa,” vị cố vấn nói. “Ông ấy
mệt mỏi rồi.”
Ông cố vấn nói rằng
ông không bị ấn tượng bởi những người biểu tình. “một triệu người không biểu thị
ý chí của nhân dân,” ông nói. “Nhân dân không muốn Saleh ra đi.”
Đĩa tôm được mang ra.
Ông cố vấn nhìn đồ ăn của mình, nhưng không động đến nó.
Vị cố vấn nói ông hết
sức lo ngại rằng Yemen
sẽ tan vỡ. Ông phác họa ra kịch bản: miền nam sẽ ly khai đầu tiên, rồi những
người Houthi sẽ bỏ đi, ở miền đông, Saudi sẽ thuyết phục một số dân bộ lạc cơ hội
tách ra, cuối cùng sẽ cho Saudi Arabia một con đường bộ đến tận biển Arab.
“Cuộc chống đối này sẽ
không kéo dài quá bẩy ngày,” ông cố vấn nói với tôi. “Yemen sẽ rơi vào một cuộc nội chiến.
Và đó là điều mà những người Islamist mong muốn. Hameed al-Ahmar sẽ chạy thẳng
vào phủ tổng thống.”
Chúng tôi quay lại
Saleh và tình thế khó chịu của ông ta. “Ông ấy đang bị sức ép.” Người cố vấn
nói. “Vấn đề là: ông ấy chịu đựng được đến đâu?”
Chúng tôi cùng nhau bước
ra. Tôm bỏ trong hộp. Khi chúng tôi hướng đến xe của ông, ông bảo tôi, “Chỉ có
Saleh mới giữ được Yemen.
Xin hãy nhớ như thế.” Rồi ông lái xe trở về dinh.
[1] Tước
hiệu bộ lạc A Rập trao cho người giữ cương vị bảo trợ bộ lạc và mọi tài sản của
nó. Các Sharif là dòng dõi Tiên tri Muhammad
[2] Giáo sĩ Hồi
giáo hay tù trưởng bộ lạc ở các nước A Rập
[3] Phụ nữ
lấy chồng sống với gia đình nhà chồng.
[4] Xem thêm :
http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/tulieu_tacpham.asp?TPID=15076&LOAIID=34&LOAIFID=5&TGID=1303
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét