Chủ Nhật, 19 tháng 2, 2017

KHI QUÁ MUỘN ĐỂ CHẶN TAY PHAT XIT - THEO STEFAN ZWEIG

 Newyorker.  6 tháng Hai, 2017


Stefan Zweig ở Ossining, New York, năm 1941, bảy năm sau khi trốn thoát khỏi bọn Nazi đang lên ở châu Âu.
ẢNH: ULLSTEIN BILD / GETTY


Hiếu Tân dịch
Nhà văn lưu vong Stefan Zweig soạn bản thảo đầu tiên cuốn hồi kí của ông, “Thế giới của Ngày Hôm qua,”  trong cơn mê sảng như lên cơn sốt, mùa thu 1941, như những dòng titre chỉ rõ rằng nền văn minh đang bị bóng tối nuốt chửng. Nước Pháp yêu quí của Zweig đã rơi vào tay Nazi năm ngoái, Blitz[1] đã lên đến cực điểm hồi tháng Năm, với gần một nghìn năm trăm người dân London chết chỉ trong một đêm. Chiến dịch Barbarossa, cuộc xâm lược Liên Xô của phe Trục, trong đó gần một triệu người chết, phát động vào tháng Sảu. Những đội sát thủ cơ động Einsatzgruppen của Hitler, lồng lộn ngay sau Quân đội, tàn sát người Do thái và các sắc dân bị phỉ báng khác – thường được sự giúp sức của cảnh sát địa phương và dân thường.
Zweig đã thoát khỏi Áo trước khi thất thủ, 1934. Trong hồ sơ của nước này, cuộc nội chiến đẫm máu hồi tháng Hai, khi Thủ tướng Thày tu – Phát xit của nước này, Engelbert Dollfuss, đã tiêu hủy lực lượng Xã hội chủ nghĩa đối lập; ngôi nhà của Zweig  ở Salzburg đã bị lục soát để tìm những vũ khí bí mật cung cấp cho dân quân cánh tả. Thời gian đó Zweig được coi là nhà nhân đạo hòa bình chủ nghĩa xuất sắc nhất châu Âu, và sự thô bạo trắng trợn quá quắt của các hành động cảnh sát khiến ông căm ghét đến mức ông đã thu xếp đồ đạc ngay đêm ấy. Từ Áo, Zweig và người vợ thứ hai của ông, Lotte, đi sang Anh, rồi sang Tân Thế giới, thành phố New York trở thành nơi ở của ông, tuy ông ghét cái cảnh đông đúc và cạnh tranh chen chúc. Tháng Sáu năm 1941, muốn thoát khỏi những người tha hương ở Manhattan cầu xin ông giúp đỡ tiền bạc, công việc và quan hệ, hai vợ chồng thuê một căn nhà gỗ một tầng xoàng xĩnh ở Ossining, New York, cách Khu Trừng giới Sing Sing khoảng một dặm đường lên dốc. Ở đây, Zweig bắt đầu miệt mài làm việc cho cuốn hồi ký, giống “bảy con qủỷ mà không có lấy một cuộc dạo chơi” như ông mô tả. Khoảng bốn trăm trang tuôn ra từ ông trong vòng một tuần. Năng suất làm việc ấy phản ánh cái cảm giác khẩn cấp của ông: cuốn sách được soạn ra như một kiểu thông điệp cho tương lai. Có một qui luật lịch sử là, ông viết, “những người đương thời từ chối một nhận thức về  những khởi đầu sớm của các phong trào lớn nó quyết định thời đại của họ.” Vì lợi ích của những thế hệ kế tiếp, những thế hệ sẽ được giao nhiệm vụ xây dựng lại xã hội từ đống tro tàn đô nát, ông quyết định lần tìm lại chế độ khủng bố của Nazi đã có thể thành công như thế nào, và làm sao bản thân ông cũng như nhiều người khác đã có thể mù quáng trước những bước khởi đầu của nó.
Zweig nhận rằng ông không thể nhớ lần đầu tiên nghe tên Hitler là khi nào. Đó là một thời đại lộn xộn, đầy những kẻ kích động xấu xa. Trong những năm đầu khi Hitler nổi lên, Zweig đang ở đỉnh cao sự nghiệp của ông, một chiến sĩ nổi tiếng của sự nghiệp nhằm đẩy mạnh tình đoàn kết giữa các dân tộc châu Âu. Ông kêu gọi thành lập một trường đại học quốc tế có chi nhánh tại tất cả các thủ đô lớn của châu Âu, với một chương trình trao đổi luân phiên nhằm đưa lớp trẻ tiếp cận với các cộng đồng, các nhóm thiều số, và các tôn giáo khác. Ông nhận thức quá rõ rằng những cơn bốc đồng dân tộc chủ nghĩa thể hiện trong Chiến tranh Thế giới Thứ nhất, đã bị pha trộn bởi những tư tưởng kỳ thị chủng tộc trong những năm giữa hai cuộc đại chiến. Khó khăn kinh tế và cảm giác nhục nhã mà toàn thể công dân Đức trải nghiệm như hậu quả của Hiệp ước Versailles đã tạo ra một nỗi oán hận tràn ngập có thể tiếp lửa cho vô số dự án quá khích, khát máu.
Zweig đã nhận xét về kỉ luật và những nguồn tài chính biểu hiện trong những đại hội của những người Quốc gia Xã hội chủ nghĩa (tiếng Đức: Nationalsozialismus, viết tắt là Nazism) – những bộ đồng phục mới cứng đồng bộ một cách kì quái, những đoàn xe ô tô, mô tô xe tải phi thường mà họ diễu hành. Zweig thường vượt biên giới Đức đến thị trấn nghỉ dưởng nhỏ Berchtesgaden, nơi ông thấy “những đội nhỏ nhưng không ngừng lớn lên gồm những người trẻ tuổi đi giày cưỡi ngựa và mặc sơmi màu nâu với một hình chữ thập ngoặc trên ống tay áo.” Những người trẻ tuổi này rõ ràng được huấn luyện để tấn công, Zweig nhớ lại. Nhưng sau khi âm mưu nổi dậy của Hitler bị đập tan, năm 1923, Zweig dường như khó mà suy nghĩ khác về Nazi cho đến những cuộc bầu cử năm 1930, khi sự ủng hộ Đảng này bùng nổ – từ dưới một triệu cử tri hai năm trước lên đến hơn sáu triệu. Từ thời điểm này, vẫn còn rõ ràng khẳng định nổi tiếng này có thể báo trước điều gì, Zweig hoan nghênh nhiệt tình biểu lộ trong các cuộc bầu cử. Ông chê trách sự hẹp hòi của những người dân chủ cổ hủ của đất nước trước thắng lợi của Nazi, ông gọi những kết quả của thời gian đó là “một tiếng vang có thể không khôn ngoan nhưng cơ bản và cuộc nổi dậy được hoan nghênh của tuổi trẻ chống lại sự chậm chạp và thiếu quyết đoán của ‘chính trị cao cấp’ ”.
Trong hồi ký của mình, Zweig không bào chữa cho bản thân ông và những bạn trí thức của ông vì đã không sớm đoán ra ý nghĩa của Hitler. “Ít người trong số các nhà văn chịu khó đọc cuốn sách của Hitler, đã chế giễu lối khoa trương của phong cách văn chương thùng rỗng của y, thay vì nghiền ngẫm chương trình của y,” ông viết. Họ không coi y là nghiêm túc hay có văn hoá. Thậm chí trong những năm một chín ba mươi “những tờ báo dân chủ lớn, thay vì cảnh báo bạn đọc, lại bảo đảm với họ ngày này sang ngày khác rằng phong trào này...sẽ không tránh khỏi nhanh chóng sụp đổ.” Tự hào về học vấn cao của chính mình, tầng lớp trí thức không thể hấp thụ ý tưởng cho rằng chính nhờ có “những kẻ giật dây” – những nhóm tự lợi và những cá nhân tin rằng họ có thể lôi kéo những trí thức bất mãn để thủ lợi cho chính họ –  mà kẻ vô giáo dục “kích động ở quán bia ” này đã thu được sự ủng hộ rộng lớn. Dù sao Đức vẫn là một quốc gia mà luật pháp dựa trên một nền tảng vững chắc, nơi đa số trong quốc hội phản đối Hitler, và nơi mà mọi công dân tin rằng “tự do và những quyền bình đẳng của họ được bảo đảm bởi hiến pháp được công bố một cách long trọng.”
Zweig nhận ra rằng tuyên truyền đóng vai trò cực kì quan trọng trong việc xói mòn lương tâm của thế giới. Ông miêu tả khi cơn thủy triều tuyên truyền dâng lên trong Thế Chiến Thứ Nhất, tràn ngập báo chí và radio, sự nhạy bén của độc giả đã trở nên u mê như thế nào. Cuối cùng, ngay đến những nhà báo và trí thức có thiện chí cũng mắc tội vì cái mà ông gọi là “doping” của kích động, một kích thích cảm xúc nhân tạo, lên đến cực điểm và không thể tránh khỏi, trong sự căm thù và sợ hãi của quần chúng. Mô tả sự náo động lành mạnh theo sau tiếng la hét hùng hồn của một nghệ sĩ chống chiến tranh trong mùa thu năm 1914, Zweig nhận xét rằng vào thời điểm đó, “lời nói vẫn còn có sức mạnh. Nó vẫn chưa bị giết chết bởi sự dối trá có tổ chức, bởi tuyên truyền.” Nhưng Hitler đã “nâng dối trá lên thành vấn đề tất yếu,” Zweig viết, khi hắn đưa chủ nghĩa phản nhân đạo thành luật pháp.” Ông nhận xét, vào năm 1939, “Không có một tuyên bố của bất kì nhà văn nào có chút tác động nhỏ nhất.. không có cuốn sách nào, tiểu luận nào hay bài thơ nào” có thể gợi cho quần chúng chống lại việc Hitler hò hét thúc đẩy chiến tranh.
Tuyên truyền vừa củng cố cơ sở của Hitler vừa cung cấp vỏ bọc cho những cuộc xâm lược tàn bạo nhất của chế độ của hắn. Nó cũng làm cho những người đi tìm sự thật rơi vào suy nghĩ mong đợi mơ hồ, khi nỗi khao khát của người Âu về một giải pháp tốt lành cho cuộc khủng hoàng toàn cầu này bao trùm lên mọi hoài nghi có lí. “Hitler chỉ cần thốt ra từ ‘hoà bình’ trong một bài diễn văn, là khuấy động ngay được nhiệt tình của báo chí, khiến họ quên mọi hành động trong qúa khứ của hắn, và không hỏi tại sao Đức vũ trang điên cuồng đến thế, “ Zweig viết. Thậm chí khi người ta nghe những tin đồn về việc xây những trại tập trung đặc biệt, và về những căn phòng bí mật nơi những người vô tội bị thủ tiêu không qua xét xử, người ta vẫn không chịu tin rằng cái thực tế mới ấy có thể tồn tại lâu, Zweig kể lại. “Cái ấy có thể chỉ là sự bùng nổ của cơn thịnh nộ ban đầu, rồ dại,” người ta tự nhủ như vậy. “Loại sự việc ấy không thể tồn tại lâu ở thế kỉ hai mươi.” Trong một trong những cảnh xúc động nhất trong cuốn hồi kí của ông, Zweig mô tả ông nhìn thấy những người tị nạn đầu tiên từ Đức trèo qua những ngọn núi Salzburg và lội qua những dòng suối để vào Áo một thời gian ngắn sau khi Hitler được bổ nhiệm Thủ tướng. “Đói khát, tiều tụy, bị kích động... họ là những lãnh đạo trong chuyến bay hoảng loạn để cố thoát khỏi sự vô nhân đạo đang tràn ra cả quả đất. Nhưng ngay khi đó, khi tôi nhìn vào những người đi lánh nạn ấy, tôi chắc chắn đã nhận thấy trên những gương mặt xanh xao kia, như một tấm gương, cuộc sống của chính tôi; và thấy rằng tất cả, tất cả, tất cả chúng ta sẽ trở thảnh nạn nhân của chứng khát quyền lực của chỉ một con người này.”
Zweig sống khốn khổ ở Hoa Kỳ. Những người Mỹ dường như thờ ơ với đau khổ của những người di cư; châu Âu, ông nhắc đi nhắc lại, đang tự sát. Ông kể với một người bạn rằng ông cảm thấy như thể ông đang sống một cuộc sống “của người đã chết.” Trong một cố gắng vô vọng làm mới lại ý chí quyết sống, ông đã sang Brazil năm 1941, ở đó, trong những lần viếng thăm trước, người dân của đất nước này đã đối xử với ông như một siêu sao, và ở đó, sự pha tạp chủng tộc rõ ràng làm Zweig sửng sốt như thấy con đường duy nhất cho nhân loại tiến lên phía trước. Trong những bức thư gửi đi vào thời gian này, ông thổ lộ nỗi khát khao thường trực, như thể ông đã du hành ngược thời gian về thế giới của ngày hôm qua. Thế nhưng, cho dù tất cả sự ưu ái của ông đối với người dân Brazil và cảm kích trước vẻ đẹp thiên nhiên của đất nước này, nỗi cô đơn của ông ngày càng trở nên sắc lạnh. Nhiều bạn thân của ông đã chết. Những người khác thì cách xa vạn dặm. Giấc mơ của ông về một châu Âu bao dung, không còn biên giới, (luôn là tổ quốc tinh thần của ông) đã bị phá hủy. Ông viết cho tác giả Jules Romains “Cuộc khủng hoảng bên trong của tôi là ở chỗ tôi không thể đồng hóa bản thân tôi với tôi của tờ hộ chiếu, với cái tôi lưu vong.” Tháng Hai1942, cùng với Lotte, Zweig dùng thuốc ngủ quá liều. Trong một thông điệp tự tử chính thức ông để lại, Zweig viết rằng có lẽ tốt hơn hết là rút lui trong tự trọng trong khi còn có thể, sau khi đã sống “một cuộc sống mà lao động trí tuệ là niềm vui thanh khiết nhất và tự do cá nhân là điều tốt lành nhất trên mặt đất.”
Tôi tự hỏi Zweig sẽ đánh giá sự thoái hoá tinh thần của nước Mỹ đã rơi xuống mức nào trong tình trạng hiện nay của nó. Chúng ta có một lãnh đạo lôi cuốn, một kẻ nói dối liên tục và không ăn năn – không phải bệnh lí mà có mưu đồ, để xoa dịu các đối thủ, để khích động cơn thịnh nộ trong khối cử tri nòng cốt của ông ta, và để khuấy động những lộn xộn. Nhân dân Mỹ bị làm cho rối mù và mụ mị bởi một trận lụt những tin tức giả mạo và thông tin làm lạc hướng. Đọc trong hồi kí của Zweig trong những năm Hitler lên nắm chính quyền, tự hỏi tại sao nhiều người có thiện chí thời đó “không thể hay đã không muốn nhìn ra một thủ đoạn mới vô sỉ bất chấp luân thường đạo lý một cách cố ý đang hoạt động,” khó mà không nghĩ về tình trạng tệ hại hiện nay của chúng ta. Tuần trước, khi Trump kí một lệnh quyết liệt cấm nhập cư dẫn đến một sự phản đối kịch liệt khắp trong nước và trên thế giới, rồi sau đó tìm cách xoa dịu những người phản đối bằng những biện pháp tạm thởi và những lời chối cãi, tôi nghĩ về một trong những thủ đoạn chủ yếu mà Zweig đã nhận dạng ở Hitler và những bộ trưởng của hắn: họ đưa ra những biện pháp cực đoan nhất một cách từ từ – có mưu đồ – để đánh giá mỗi sự vi phạm mới được đón nhận như thế nào. “Mỗi lần chỉ một viên thuốc duy nhất rồi sau đó đợi để quan sát tác động của sức mạnh của nó, để xem lương tâm của thế giới có tiêu hóa trọn được cả liều không,” Zweig viết. “Những liều thuốc tăng mạnh dần dần cho đến khi cả châu Âu lụi tàn vì chúng.”
Và Zweig vẫn có thể nhận xét về hôm nay rằng, Tổng thống Trump và “những kẻ giật dây” vô sỉ của ông ta vẫn chưa khóa hồ sơ về việc thực thi quyền lực của họ. Một bài học bi thảm mà “Thế giới của Ngày Hôm Qua” đưa ra là, ngay cả trong một nền văn hóa mà những thông tin đánh lạc hướng tràn ngập, nơi mà một thái độ hung dữ được những nhóm lợi ích giàu có, táp nham ủng hộ, cảm thấy có quyền nhờ sự nói dối không nao núng của một lãnh đạo có sức lôi cuốn, trung tâm có thể vẫn giữ được. Theo quan điểm của Zweig, chất độc cuối cùng cần thiết để làm kết tủa cơn thảm họa Đức xảy ra vào tháng Hai năm 1933, với vụ cháy toà nhà quốc hội ở Berlin, một vụ hỏa hoạn cố ý mà Hitler đổ cho những người cộng sản nhưng nhiều nhà sử học vẫn tin rằng do chính bọn Nazi gây ra. “Một cú đấm làm toàn bộ hệ thống tư pháp Đức tan tành,” Zweig nhớ lại. Sự phá hủy một công trình có tính biểu tượng – một vụ cháy chẳng làm chết ai – trở thành một cái cớ để chính phủ bắt đầu khủng bố thường dân của chính nó. Đám cháy định mệnh đó xảy ra chưa đến ba mươi ngày sau khi Hitler trở thành Thủ tướng. Sức mạnh đầy khổ đau của cuốn hồi kí của Zweig nằm ở nỗi đau nhìn lại và thấy rằng có một cửa sổ nhỏ trong đó có thể hành động, và rồi phát hiện ra cánh cửa sổ đó bỗng nhiên đóng sập lại một cách đột ngột và không sao cưỡng lại như thế nào.




[1] Blitz là cuộc oanh kích Anh Quốc của Phát Xít Đức thực hiện trong Thế chiến II từ 7 tháng 9 năm 1940 tới 10 tháng 5 năm 1941. Trong khi chiến dịch thực hiện oanh tạc một loạt thành phố và thị trấn dọc vương quốc Anh, lực lượng không quân Đức bắt đầu tấn công London trong 57 ngày liên tiếp. Tính đến cuối tháng 5 năm 1941, hơn 43.000 dân thường, một nửa trong số đó là dân London đã bị giết hại bởi cuộc không kích, hơn một triệu ngôi nhà tiêu hủy hoặc tàn phá chỉ tính riêng tại London. (vi.wikipedia)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét