Hiếu Tân
Xem lại một bài viết cách đây mười năm,
cùng đọc lại Truyện Kiều trong trí nhớ.
Truyện
Kiều là một trong những tác phẩm luôn gợi ra những suy nghĩ mới mỗi lần đọc lại.
Hơn hai trăm năm nay, về văn chương Truyện Kiều đã có hàng ngàn lời bình, tán;
những khám phá, phát hiện góp vào việc đọc hiểu, thẩm, thụ cảm, thưởng
ngoạn vẻ đẹp lộng lẫy của ngôn từ, văn phong, tình tiết, tâm lý. Góp, vì
những bình tán ấy thường là hoà hợp, bổ sung cho nhau mà ít khi tranh giành loại
trừ nhau, làm cho ta hiểu các tầng ý nghĩa của truyện ngày càng phong phú và
sâu sắc thêm. Ngay cả khi các kiến giải khác nhau về cách hiểu, cách đọc một chữ,
thì tất cả các lý giải vẫn còn đó bỏ ngỏ để người đọc người nghe tự mình lựa chọn,
tâm đắc.
Còn về tư tưởng, triết
lý Truyện Kiều? Các học giả chia làm nhiều phe, dùng vũ khí lý luận của mình nhất
quyết chiếm lĩnh mảnh đất Truyện Kiều cho riêng mình, bằng cách loại trừ, đánh
bại, đánh bạt đối thủ để giành phần thắng. Mỗi bên có cái lý của riêng mình, và
Truyện Kiều còn đó.
Hãy hình dung Truyện
Kiều là “vườn xuân một cửa”, thì cửa ấy đâu có ngăn cấm một ai. Bước chân vào đấy,
ta có thể suy tư về đủ điều, mọi lẽ. Dựa trên những diễn biến, những tâm tình trong truyện,
ta có thể trầm tư về lẽ đạo hay ngẫm ngợi lẽ đời, và ta thấy mình có toàn quyền
như thế. Còn nếu xác quyết rằng “Chính Nguyễn Du đã nghĩ thế này” hay “đây mới
thực là tư tưởng Nguyễn Du”, thì xin hãy dè dặt, chậm rãi một chút. Tôi e rằng
Nguyễn Du sẽ mỉm cười lặng lẽ: “Ta quả có viết 3254 câu thơ, nhưng ta có nói gì
đâu?”
NGUYỄN DU và THANH TÂM TÀI NHÂN
– ĐOẠN TRƯỜNG TÂN THANH và KIM VÂN KIỀU TRUYỆN
Bàn về nội dung và triết
lý Truyện Kiều, nhiều học giả cứ vô tư viết: “Nguyễn Du đã để cho Kiều thế này,
Nguyễn Du đã chọn cho Kiều thế kia”. Ví dụ: “Nguyễn Du đã không để Kiều lưu
lại trong chùa trong quãng đời còn lại”, “Họ cho rằng Nguyễn Du nên nhân đạo
hơn hay nên thoát khỏi tư tưởng phong kiến luôn luôn chà đạp đàn bà, bằng cách cho
nàng Kiều chết thật”, v.v.
Nhưng thực ra Nguyễn
Du có muốn chọn cũng không được, vì Thanh Tâm tài nhân đã chọn rồi. Xin cử một
vài ví dụ so sánh:
- “Hai lần Nguyễn
Du đã không để cho nhân vật của mình chết” (đính chính: Thanh Tâm tài nhân
không để...).
Lần một: Kiều định tự tử trong đêm tân hôn với Mã Giám
sinh:
Kim Vân Kiều truyện:
“Kiều thốn đạo: tha
phí ngân thảo ngã, ngã nhược tử liễu, tha khởi cam tâm, tất liên luỵ ngã phụ
thân. Bãi! Bãi! Phủ đắc nhất tử phóng tại hung trung’ tha đáo tha gia như bất
thoả thiếp tử tại tha gia vị trì.”
Kiều ngẫm nghĩ: hắn bỏ
tiền ra mua mình, nếu mình chết hắn đâu có chịu ắt rồi liên luỵ đến cha. Thôi,
thôi, việc chết không để bụng nữa, đợi hắn về đến nhà, nếu không thoả mình chết
tại nhà hắn cũng chưa muộn. (Thanh Tâm tài nhân)
Đoạn trường tân thanh:
“Nghĩ đi nghĩ lại một
mình,
Một mình thì chớ
hai tình thì sao
Sau dầu sinh sự thế
nào
Truy nguyên chẳng kẻo
luỵ vào song thân”
(Nguyễn Du)
Lần hai: (Ở nhà Tú bà, sau khi tự tử không thành, mơ gặp
Đạm Tiên)
Kim Vân Kiều truyện:
“Kiều tưởng đạo tiền
sinh nghiệp trái, kim nhật vị hoàn, hựu tăng lai sinh nhất trùng oan trái, hà
thời hoàn đắc can tịnh.”
Kiều thầm nghĩ: nợ kiếp
trước đến giờ chưa trả, lại để kiếp sau nợ chồng lên một tầng nữa, thì bao giờ
gỡ cho xong.
(Thanh Tâm tài nhân)
Đoạn trường tân thanh:
Kiếp này nợ trả
chưa xong
Làm chi thêm một nợ
chồng kiếp sau
(Nguyễn Du)
Nguyễn Du đã chọn cho
nhân vật của mình giải pháp sống lại (đính chính: Không phải Nguyễn Du mà Thanh Tâm Tài Nhân chọn).
Kim Vân Kiều Truyện:
“Đạm Tiên vị kiều
tòng tiền khổ dĩ lịch tận, kim nhật kiếp hựu tiêu hoàn, tự thử phúc lộc chung
thân, tình duyên như ý, đoạn trường hội tạc dĩ trừ danh, đoạn trường thi kim
đương phụng bích”
Đạm Tiên bảo Kiều khổ
trước đã hết, kiếp này được toàn vẹn, từ đây cả đời được phúc lộc, tình duyên
như ý, hội đoạn trường đã xoá tên, thơ đoạn trường nay mang trả lại. (Thanh Tâm
tài nhân)
Đoạn trường tân thanh:
Đoạn trường sổ rút
tên ra
Đoạn trường thơ phải
đem mà trả nhau
Còn nhiều hưởng thụ
về sau
Duyên xưa tròn trặn
phúc sau dồi dào
(Nguyễn Du)
Qua đây, có thể thấy
Nguyễn Du đã theo khá sát cốt truyện của Thanh Tâm tài nhân. Tôi không đồng ý
với những người cho rằng Nguyễn Du đã phóng tác ra Truyện Kiều. Khi nói đến những
đỉnh cao tư tưởng xuất phát từ nội dung, cốt truyện Truyện Kiều, ta nên thận trọng
trừ bớt đi phần của Thanh Tâm tài nhân, phần còn lại mới đích thực là của Nguyễn
Du.
Hãy xem đoạn tả cuộc đối
thoại Kiều - Kim trong đêm tân hôn:
Kim Vân Kiều truyện:
“Dĩ lang ái thiếp
chi cách ngoại, cố hàm tu dĩ tương tòng, nhược bất cập vu tiết hiệp, sử thiếp
vong tình thượng khả lược thi nhan đối quân tử. Nhược tất dĩ thiếp thụ nhục chi
thời giả nhục thiếp, thị phi ái thiếp dã, cừu thiếp dã”
(Chàng yêu thiếp lối
bên ngoài, thì thiếp cố gượng theo chàng, nếu không đến nỗi suồng sã quá trớn,
không đến nỗi để thiếp quên tình, thì thiếp có thể mở mặt hầu quân tử. Còn như
cứ lấy những điều thiếp đã bị nhục trước đây để sỉ nhục thiếp, thì không còn là
yêu thiếp nữa, mà là thù thiếp đấy).
Chỗ này Đoạn Trường
Tân Thanh viết thế nào:
Những như âu yếm
vành ngoài
Còn toan mở mặt với
người cho qua
Lại như những thói
người ta
Vớt hương dưới đất,
bẻ hoa cuối mùa
Cũng nhơ dở nhuốc
bày trò
Còn tình đâu nữa chỉ
thù ấy thôi!
Cùng một ý tưởng, mà một
bên thì cục mịch, thô vụng; một bên thì ý nhị rõ ra ngôn ngữ của người có tâm hồn,
và có học. Kiều của Thanh Tâm tài nhân là một cô gái điếm hoàn lương, rất nhạy
cảm với vết ô nhục cũ chỉ sợ đến một lúc nào đó chàng Kim lại coi thường mình,
giở những nỗi nhục cũ ấy ra mà làm mình nhục thêm lần nữa: đó là suy nghĩ thường
tình của người trong cảnh ngộ ấy. Hai chữ “tiết hiệp”(“suồng sã, quá trớn,
khinh lờn”) có ý ngăn đe, “chặn trước” khiến người đối thoại không khỏi cảm thấy
ê chề.
Kiều của Nguyễn Du tự
thẹn mình không còn “phong nhuỵ” để đối đãi tình nhân, Người yêu ta xấu với
người, tuy rằng từ trong sâu thẳm cõi lòng trong sạch, Kiều luôn xứng đáng với
Kim Trọng, như Phạm Quí Thích đã viết “Băng tâm tự khả đối Kim lang”. Ấy
là vì nàng trân trọng mối tình cũ, đặt nó ở vị trí quá cao nên không muốn đem
thân mình đã lấm bụi trần dự vào chuyện chăn gối làm thấp nó đi. Và nàng cũng rất
hiểu người tình, hai bên đúng là “tương tri dường ấy mới là tương tri”
không làm gì có cái ý “xấu với người thì người xấu lại”.
Người yêu ta
xấu với người
Yêu nhau thì lại bằng
mười phụ nhau.
Kiều không e sợ bị
chàng đối xử thế nào, mà chỉ lo mình không còn đủ tư cách đáp lại tấm tình cao
quí ấy. Xấu ở đây là xấu hổ, chàng vì quá yêu mà thiếp cố theo, miễn cưỡng
mà theo thì khác gì phụ nhau.
Cái giống và cái khác,
cái chung và cái riêng giữa hai văn bản là thế. Về nội dung, cốt truyện giống
nhau đến từng chi tiết. Cái khác ở đây là khác giữa một câu chuyện kể thường với
một kiệt tác văn chương, khác nhau về chiều sâu tâm lý, khác nhau giữa thơ
và cái không thơ.
TRUYỆN
KIỀU: HIỆN THỰC VÀ SIÊU HÌNH
Trong Truyện Kiều có
hai mạch chuyện: mạch nổi và mạch ngầm.
Mạch nổi là cái mà ta có thể thấy bằng con mắt trần tục:
· Bọn sai nha gây oan
khổ cho nhà Vương viên ngoại, đẩy Kiều đến bước bán mình;
· Mã Giám sinh, Tú Bà,
Sở Khanh mưu mô hại đời Kiều;
· Hoạn Thư hiểm ác và
cay nghiệt đày đoạ, Thúc sinh thực lòng yêu thương cứu chuộc, bà quản gia, vãi
Giác Duyên thương tình cứu vớt;
· Từ Hải nâng nàng lên
cao đỉnh chót vót vinh hoa và quyền thế;
· Hồ Tôn Hiến đạp nàng
xuống đáy ô nhục.
Tất cả mọi khổ đau của
Kiều đều có nguyên nhân trực tiếp do những con người bằng xương bằng thịt gây
ra, nếu ta nhìn sự vật bằng con mắt tự nhiên của những người chưa bị vướng bận
với những học thuyết về bản thể, sự vật thế nào cứ để nguyên như thế, không
thêm bớt cái gì từ bên ngoài vào, và xét đoán mọi người mọi việc bằng lương tri
thông thường. Từ cách nhìn này, thấy rõ ngườì lành kẻ ác, kẻ hèn hạ người cao
thượng. Trước mỗi nhân vật, mỗi cảnh ngộ, Nguyễn Du đều bày tỏ bộc trực hay
thâm thuý thái độ của mình, và những tâm cảm ấy qua lời thơ mà truyền vào người
đọc, người nghe. Đối với người đọc bình thường, thế cũng đủ đáp ứng nhu cầu về
phương diện nhận thức thực tại.
Một số lý luận gia “có
tinh thần chiến đấu” muốn đi đến một kết luận khái quát đậm màu chính trị, mà
Xuân Diệu là một trường hợp điển hình. Trong “Bản cáo trạng cuối cùng trong
truyện Kiều” [i] chúng ta được thấy mối cảm thương trái
khoáy của ông đối với nàng Kiều, và ngợi ca nhầm chỗ đối với Nguyễn Du. Trái
khoáy và nhầm chỗ, bởi vì cái “sáng tạo thêm rất lớn” của Nguyễn Du.
không phải ở “bản cáo trạng cuối cùng” do Xuân Diệu tưởng tượng ra một
cách nực cười vì nó không đúng, mà ở hình tượng một nàng Kiều độc đáo, sâu sắc
mà sự lựa chọn đã nâng nàng lên cao hơn tầm nghĩ của hàng “nữ nhi thường tình”.
Điều đó có được chính là nhờ tài nghệ ngữ ngôn của một Nguyễn Du trác việt.
Xuân Diệu lo cho nàng
Kiều “ba mươi tuổi sẽ sống như thế nào, thực chất là không chồng không con
cho đến hết đời.”Chính Nguyễn Du đã nói rõ điều này: “Một nhà phúc lộc gồm
hai”, nhưng Xuân Diệu không chịu nhận đó là hạnh phúc thực sự, vì nó là “buộc
gioa”, tư sản, dù ông không hỏi Nguyễn Du và Kiều xem nàng có thoả nguyện với
cái phúc lộc “buộc gioa” ấy không? Còn lại một điều là Xuân Diệu xót xa cho cái
cảnh “chay tịnh”, “tình mà không dục” của Kiều cho đến hết đời.
Nhưng đây chính là sự lựa chọn tự do của Kiều, đem nó ra làm cáo trạng để tố
cáo xã hội, thật ra đã hạ thấp nàng Kiều ở cuối câu chuyện, từ vị trí một người
ung dung làm chủ đời mình và thân mình, sống cái đời mà tự mình đã chọn, xuống
thành ra một nạn nhân có cảnh ngộ và tâm trạng tủi nhục đáng thương; và như vậy,
cái ý nghĩa của đoàn viên, tái hồi chẳng còn lại gì, cái kết có hậu lại thành
không hậu. Cái đau hão, thương hờ của Xuân Diệu ở đây chỉ càng chứng tỏ ông
không hiểu cả Kiều và Nguyễn Du.
Nhà thi sĩ mơ mộng xưa
kia có lần đứng giữa đất trời mà cảm nhận cái huyền vi của “không gian như
có dây tơ, bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tiêu” lúc này hăm hở chiến đấu cho một
lý tưởng “chống áp bức bóc lột”, lại đưa ra những ý tưởng thô thiển, kỳ cục và
thật chẳng thơ chút nào.
Nhà thơ cho rằng
mình đang chống áp bức bất công của xã hội. Tốt lắm. Vấn đề là bằng cách nào?
Bằng cái lối của kẻ độc quyền chân lý: vơ nhận tất cả cái cao đẹp về phía mình
và tống tất cả cái xấu xa bị ổi sang phía địch, cuộc “chiến đấu” thật quá dễ
dàng.
Cái lôgích ở đây khá
đơn giản: Chúng ta (tức là Xuân Diệu) tuyên chiến với mọi xã hội (cũ) áp bức bất
công. Và Nguyễn Du, thi hào lớn của dân tộc, trong Truyện Kiều đã lớn tiếng tố
cáo những tàn ác bất công của xã hội phong kiến. Có được một Nguyễn Du thiên
tài làm đồng minh thì còn gì bằng. Ở đây cũng như nhiều nơi khác, sự tiện lợi
là chân lý.
Với những luận đoán ấy,
cách cảm cách nghĩ ấy, Xuân Diệu không phải là đơn độc trong cái thời đồng
thanh đồng phục về tư tưởng, phần nhiều nặng về khẳng định lập trường chính trị
của bản thân hơn là đưa ra những kiến giải, lập luận có tính khoa học. Với những
nhà “chiến sĩ tư tưởng” ở những mức độ tự nguyện khác nhau ấy, chỉ xin có một
câu hỏi thực tiễn cho mọi lý luận cao siêu: Vậy thì sau chừng ấy năm, cái xã hội
lý tưởng không có người bóc lột người của quý vị, nó đang ở đâu rồi?
Cái mạch thứ hai
trong Truyện Kiều, cái mạch ngầm,
cũng khá rõ nét: bóng ma Đạm Tiên một lần hiển hiện và ba lần báo mộng là một sợi
tơ xuyên suốt cuộc đời chìm đắm của Kiều, một thày phù thuỷ cao tay “phi phù
trí quỷ”, một bà Tam Hợp đạo cô nhìn rõ bước đường đời vị lai của Kiều mà như đọc
từ sách ra, đúng đến từng chân tơ kẽ tóc.
Mạch ngầm này phải được
lý giải bằng thuyết siêu hình. Có hai thuyết được nhắc đến nhiều: thuyết “Tài
mệnh tương đố” và thuyết nhân quả nhà Phật.
Thuyết “Tài mệnh
tương đố” đậm màu sắc định mệnh, thật ra là một thứ triết lý của giới nho
sĩ tài tử – đặc biệt những người đồng thời Nguyễn Du, hoặc sau một
chút – là nơi gửi gắm tâm sự của những con người tự thấy mình có tài mà không
thoả chí, tự cho mình lao đao lận đận vì tài. Ta có thể tán đồng hay bác bỏ nó,
nhưng không thể phủ nhận sự có mặt của nó trong Truyện Kiều, từ nội dung đến
hình thức, kết cấu, từ cốt truyện đến ngôn ngữ. Khác với các thuyết khác, thuyết
này có một đặc điểm gọi là “đồng bệnh tương liên” của những người cùng hội cùng
thuyền: Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Như khóc Kiều, ba trăm năm nữa ai người khóc Tố
Như? Chữ khóc ở đây không đơn giản đâu, khóc thương thì ai cũng khóc được,
nhưng tiếng khóc của Trần Dần, Văn Cao chẳng hạn, khác với tiếng khóc của Tố Hữu,
Xuân Diệu... nhiều lắm. Tất nhiên những Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, Bùi
Ngọc Tấn, cũng như những M. Bulgakov, B. Pasternac, v.v. những tài hoa của thời
hiện đại biết rõ tai hoạ của mình đến từ đâu, nên họ không kêu “trời xanh”,
“hoá công” hay “con tạo” làm gì cho mất công; nhưng đó là vấn đề thời đại. Chỗ
nương dựa của chủ nghĩa định mệnh là những “hoạ phúc khôn lường” trong thế
gian, những chuỗi ngẫu nhiên của đời sống vô thường trước sự bất lực của lý
trí, ở người thường thì không sao, nhưng hễ rơi vào những bậc tài hoa lỗi lạc
thì luôn gợi lên lòng thương cảm mênh mang nơi những ai biết giá trị của “Tài”
mà không làm được gì khác hơn là oán “Mệnh”.
Xem thân thế và văn
chương Nguyễn Du, ta thấy cái tâm sự này xuất hiện hơi nhiều.
Nghĩ về mình:
“Bản vô văn tự năng
tăng mệnh/ Hà sự càn khôn thác đố nhân?”
(Văn chương vốn chẳng
căm hờn mệnh/ Cớ chi trời đất ghét ghen người – Bùi Hạnh Cẩn dịch). Độc Tiểu
Thanh ký: “Phong vận kỳ oan ngã tự cư” (Ta tự thấy mình trong nỗi oan lạ
lùng của con người phong vận)
Viếng mộ Đỗ Phủ:
“Nhất cùng chí thử
khởi công thi”
(Có phải vì thơ hay
nên mới nghèo đến thế)
Và sâu đậm hơn cả, thống
thiết hơn cả chính là Truyện Kiều, đã nói hộ tâm sự của bao lớp ngườì, như Phạm
Quí Thích, người bạn tâm giao của Nguyễn Du đã viết:
“Nhất phiến tài
tình thiên cổ lụy, Tân thanh đáo để vị thuỳ thương?”
(Một mảnh tài tình là
cái lụy chung của muôn đời, vậy thì cuốn Tân Thanh này cốt để thương xót ai?)
Về thuyết nhân quả của
Phật giáo, chúng ta còn có dịp xem xét kỹ dưới đây.
SỰ LỰA CHỌN CỦA KIỀU TRÊN HAI BÌNH DIỆN
Trong đời mình, Kiều
không phải con người thụ động mà luôn tự mình lựa chọn, quyết định. Ta có thể
xem xét các lựa chọn của Kiều trên hai bình diện: hiện sinh và siêu hình.
Trên bình diện hiện
sinh, con người hoàn toàn tự do (“buộc phải tự do”) lựa chọn hành vi thái độ của
mình, mỗi lựa chọn cho thấy Ta là ai, Ta thế nào (“không phải lựa chọn hoàn cảnh
cho TA, mà lựa chọn TA cho hoàn cảnh”)
Trên bình diện siêu
hình, theo lý thuyết nhân quả và nghiệp của Phật giáo, lựa chọn là lựa chọn lấy
một cái nhân và rồi quả sẽ đến sau, nhân nào thì quả ấy, lựa chọn
bây giờ là nhân của mai hậu, hoạ phúc trong vị lai. Trần Trọng Kim viết:
“Theo cái lý thuyết
ấy, thì phàm phúc hay họa là ở tự mình gây ra cho mình. Mình đã có cái hoàn
toàn tự do mà làm việc thiện hay việc ác, thì mình lại có hoàn toàn trách nhiệm
về những việc ấy”.
Lựa chọn đầu đời của
Kiều là lựa chọn tình yêu:
Rằng trong buổi mới
lạ lùng,
Nể lòng có dễ cầm
lòng cho đang.
Chót lòng quân tử
đa mang,
Một lời vâng tạc đã
vàng thuỷ chung.
Cái lý lẽ “vì buổi mới
lạ lùng nên khó lòng chối từ” nghe mới thật lạ lùng, nhưng nó thật dễ thương vì
đúng là lý lẽ của con tim.
Trong sự lựa chọn ấy,
ta thấy một nàng Kiều say đắm nhưng tự tin, thanh thoát và dường như cảm thấy
được hoàn toàn tự do. Trong suốt quãng ngày đêm nhớ nhung, hò hẹn, kể cả ban
ngày “Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mái tường” lẫn ban đêm “Xăm xăm
băng nẻo vườn khuya một mình” nàng chỉ nghĩ đến tình yêu và người yêu,
không một thoáng bận lòng về những trói buộc cấm đoán của lễ giáo hay những đe
doạ của miệng lưỡi thế gian. Đây là điều mà các nhà nho chính thống không thể
nào chấp nhận, họ nổi xung vì trong cái vòng lễ giáo của họ, người phụ nữ làm
gì có quyền tự do chọn tình yêu và hôn nhân cho mình. Sau Nguyễn Du cả gần thế
kỷ mà những bậc quân tử ở ta còn cho rằng đạo đức chỉ là tuân phục sự cấm đoán,
mà hành vi đẹp nhất là biết tự cấm mình “Khoan khoan ngồi đó chớ ra/ Nàng là
phận gái ta là phận trai”, thì quả thật hành vi của Kiều đã vượt lên
trên những dây dợ lằng nhằng của thời đại mình mà trở thành biểu tượng đẹp của
tình yêu muôn thưở.
Trong cả đoạn thơ 22
câu (từ câu 501 đến câu 522) “Thưa rằng đừng lấy làm chơi… Còn thân còn một
đền bồi có khi” – lời nàng Kiều khuyên ngăn Kim Trọng giống như một bài
thuyết giảng đầy chữ nghĩa, ta thấy nàng là người có suy tư sâu sắc chứ không
phải nặng tình mà nhẹ lý như có người nhận xét. Cũng là theo những ước lệ về “chữ
trinh”, “bố kinh”, “tòng phu”, nhưng thấu đáo
hơn, nàng cốt giữ cho tình yêu được vẹn toàn, những chữ “chán chường”, “rẻ
rúng” cho thấy cái từng trải, nhìn xa của cô gái mới chớm tuổi “cập kê”
đã không hoàn toàn là “vị thành niên” nữa. Về phương diện tình dục, trong suy
nghĩ của Kiều, không phải bao giờ cũng chỉ đơn giản một chữ “không”.
Trong đêm “tân hôn” trớ trêu với Mã Giám sinh, Kiều đã hối tiếc “Biết thân đến
bước lạc loài, nhị đào thà bẻ cho người tình chung” cái ý nghĩ thầm kín
nhưng rất táo bạo – ước vọng quyền tự do, làm chủ đối với thân xác của mình –
nhất định sẽ bị các nhà đạo đức Khổng giáo kết tội là hư đốn, vì cam chịu và
vâng phục mới là chuẩn mực đạo đức mà họ đề ra cho người nữ. Trong hành vi này Kiều
có nét điển hình của người phụ nữ Phương Đông: yêu thiên về cho - hiến tặng,
không màng nhiều đến nhận - thụ hưởng. Đây cũng là một nội dung chữ
TRINH của nàng, ham muốn tình dục được dẫn dắt, định hướng bằng lý trí
hơn là bản năng. Để ý đến tính nhất quán trong hành vi, ngôn ngữ, tâm lý của
nhân vật Thúy Kiều từ lần gặp gỡ đầu tiên với Kim Trọng đến khi tái hồi như nhắc
đến ở trên, ta càng thêm thán phục thiên tài Nguyễn Du.
Lựa chọn lớn nhất
trong đời Kiều là “bán mình chuộc cha”cứu được gia đình nhưng đã đẩy
nàng vào một bước ngoặt tăm tối trong đoạn đời tiếp theo với biết bao đau đớn
nhục nhã giày vò. Khi lâm sự, Kiều là người dám có những quyết định khốc liệt.
Nàng đã ba lần chọn cái chết. Hai lần định quyên sinh để giữ trọn danh tiết (lần
một: ở Phường trọ với Mã Giám sinh “Cầm dao nàng đã toan bài quyên sinh/
Nghĩ đi nghĩ lại…”, lần hai: trong tay Tú Bà “Thôi thì thôi có tiếc gì/
Sẵn dao tay áo tức thì giở ra”) đó là những lựa chọn của phẩm giá (“Đến
điều sống đục sao bằng thác trong”) nên không thể coi là tiêu cực. Lần cuối
ở sông Tiền Đường, cái chết là lối thoát duy nhất sau những đớn đau nhục nhằn
cùng tột của kiếp người. Hai lần nàng đã chọn lầm khi mong dựa vào người khác để
tìm kế thoát thân khỏi chốn ô nhục: một lần với Sở Khanh “Cũng liều nhắm mắt
đưa chân” là đưa chân vào cạm bẫy, một lần với Thúc sinh:
“Thương sao cho trọn
thì thương
Tính sao cho vẹn mọi
đường thì vâng”
thì kết cục là không
trọn vẹn, và rất nhiều lần, trong nhiều hoàn cảnh (với mẹ Hoạn Thư, với Bạc
Bà, Bạc Hạnh, với Hồ Tôn Hiến sau cái đêm hạ công ấy) nàng không hề
được lựa chọn.
Những lựa chọn của
nàng Kiều cho thấy nàng là một người đàn bà không tầm thường, vì dám sống bằng
những ý nghĩ của riêng mình, dám là chính mình. Trên kia ta đã nhắc tới
một nét tính cách điển hình của phụ nữ Phương Đông trong tình yêu. Trong tính
cách của phụ nữ Phương Đông, còn có một nét khác cũng rất điển hình, đôi khi được
hiểu như một đức hy sinh cao cả: đó là sự cam chịu nhẫn nại, suốt đời âm thầm
như một cái bóng của người khác, của những người khác (cha, chồng, con),
suốt đời sống cho người khác mà chưa một lần sống cho riêng mình. Kiều không
thuộc type này.
Dù là lựa chọn hành vi
ứng xử hay đường đi nước bước, từ những toan tính, đắn đo, hay trước thúc ép của
hoàn cảnh, mỗi lựa chọn của Kiều một mặt dẫn đến bước tiếp theo trong số phận của
nàng, mặt khác cho ta thấy Kiều là Kiều.
Trong các lần lựa chọn
của nàng, có một lần sai lầm chết người: đó là lần xui Từ Hải ra hàng để
rồi chui đầu vào thòng lọng của Hồ Tôn Hiến. Lựa chọn đó rốt cuộc đưa đến cái
chết và làm tiêu vong sự nghiệp của Từ. Đối với một anh hùng như Từ Hải, trong
chiến trận thắng bại sống chết tưởng cũng là chuyện thường. Riêng hình ảnh một
Từ Hải “Khí thiêng khi đã về thần/ Nhơn nhơn còn đứng chôn chân giữa vòng”
là dấu hỏi khủng khiếp chất lên lương tâm nàng Kiều – Lầm lỡ hay phản phúc? Thật
dạ hay hai lòng? – và chỉ câu trả lời của nàng “thà cùng sống chết một ngày
với nhau” mới giải được cái khí uất ngất trời kia, để Từ đi về nơi chín suối
mà không phải ôm hận đã chết dưới tay nàng. Ý này đã hai lần dội lại lương tâm
nàng Kiều, “Trong mình nghĩ đã có người thác oan”, và “Giết chồng mà
lại lấy chồng” lương tâm nàng tự gánh lấy trách nhiệm do lầm lỡ trong lựa
chọn của mình.
Trong các mối quan
hệ, chẳng phải Kiều không bao giờ được người khác nghe và hiểu. Kiều
đã được Hoạn thư nghe (cho ra ở Quan âm các). Thúc sinh lúc đầu cũng có ý định
nghe (lời khuyên của Kiều), nhưng sau tự ý làm trái là do nhu nhược và vụng dại
– điều mà Kiều đã tiên cảm. Chính vì Kiều được nghe mà những lựa chọn của
Kiều mới được thực hiện, và dở hay thế nào, chính nàng phải chịu trách nhiệm,
có khi không chỉ với bản thân nàng. Những lần lựa chọn mà không được nghe
là những lựa chọn phản kháng. Còn những Tú Bà, Hoạn Bà, Bạc Bà, chẳng
ai nghe lời cầu xin của Kiều, chính vì Kiều ở thân phận đang bị
cưỡng bức, tuy sự cưỡng bức này cũng chỉ ở phạm vi dân sự. Chỉ đến Hồ Tôn Hiến, ta mới thấy cái thân phận
hèn mọn của Kiều, kẻ không còn cái gì cả, ra sao dưới mắt
cường quyền. Về phần Từ Hải, Từ Hải chưa hề tỏ ra không nghe lời Kiều, trừ
cái lần “quyết lòng dứt áo ra đi”, cười rằng “Tâm phúc tương tri/ Sao
chưa thoát khỏi nữ nhi thường tình” (mà không nghe như thế là đúng!). Trong
cái mối tâm phúc tương tri ấy, Từ không phải lúc nào cũng chiều theo ý Kiều,
nhưng luôn luôn hiểu cả đến những nỗi niềm sâu kín của nàng: “Xót nàng còn
chút song thân/ Bấy lâu kẻ Việt người Tần cách xa”. Ngược lại, Kiều đã
không thật sự hiểu Từ, để có lúc thì tán dương và khích lệ “Tấn Dương được
thấy mây rồng có phen” rồi có lúc lại cảnh tỉnh “Nghìn năm ai có khen
đâu Hoàng Sào”. Hồ Tôn Hiến đã biết đánh vào chỗ yếu nhất của cặp anh hùng
- giai nhân này: Đứng trước nguy cơ và thử thách (sự chiêu hàng của Hồ Tôn Hiến)
mà tâm tư hai người không đồng điệu:
Từ Hải:
Bó thân về với triều
đình
Hàng thần lơ láo phận
mình ra đâu?
Kiều:
Cũng ngôi mệnh phụ
đường đường
Nở nang mày mặt rỡ
ràng mẹ cha.
Hai hướng suy nghĩ ngược
chiều nhau về cùng một khía cạnh của vấn đề: viễn cảnh của giải pháp ra hàng.
Cuối cùng thì chàng đã nghe nàng và... ra hàng, và chết! Nếu lần này Từ Hải quyết
đoán hơn và không nghe cái tâm sự nữ nhi thường tình kia, thì sự nghiệp
của Từ chưa biết thế nào, (“sức này đã dễ làm gì được nhau”) có thể cũng
sẽ tan vỡ, nhưng mối tình của hai người chắc không chia lìa, và cái ước nguyện
“thà cùng sống chết một ngày với nhau” chắc có cơ thực hiện được.
Sự thiếu nhất quán
trong tâm tư Kiều là điều hoàn toàn có thể hiểu được. Sau bao nhiêu sóng gió dập
vùi, bao nhiêu bất trắc khôn lường, từ trong sâu thẳm tâm can, khát khao cháy bỏng
nhất của nàng là khát khao cuộc sống yên bình, như mọi người dân thường.
Đi theo Từ Hải, nàng đã cảm tất cả cái bấp bênh của kiếp phù hoa. Mong muốn của
nàng chỉ là đánh đổi cái vinh hoa phú quí bấp bênh này lấy cái địa vị vững vàng
bình ổn của một danh nghĩa chính thống. Những ngôi mệnh phụ, những phu
quí phụ vinh, những rỡ ràng mẹ cha chẳng qua là cái hệ quả kéo theo
nếu mong ước kia thành sự thật. Nàng biết đâu rằng cái bất trắc khủng khiếp nhất,
sự dập vùi tàn tệ nhất đang rình nàng ở phía trước, trong những lời mời gọi đường
mật kia. Nhưng Từ Hải, một khi đã dấn thân vào cuộc chơi, đã “rạch đôi sơn
hà” Từ thừa hiểu cuộc đổi chác đâu có đơn giản như vậy. Dựng lên một nhân vật
Từ Hải phản loạn trên đường đời của Kiều, dù có ý thức hay không, (những) người
viết Truyện Kiều cũng đã đặt ra vấn đề chính thống và phản kháng. Và ở đây đã
thể hiện toàn bộ mâu thuẫn trong tư tưởng Nguyễn Du. Giọng thơ của ông chưa bao
giờ sảng khoái hào hùng như khi ngợi ca Từ Hải, và ai bảo cái chí
Phong trần mài một
lưỡi gươm,
Những phường giá áo
túi cơm sá gì.
không phải là của
chính Nguyễn Du? Và rồi những “thánh trạch dồi dào”, “năm mây chiếu
trời” làm ta thấy sự kính cẩn của ông đối với cửu trùng, niềm tin của ông
vào cái vĩnh cửu chính thống “Bốn phương phẳng lặng hai Kinh vững vàng”
vẫn không hề lay chuyển.
Để nhận rõ hơn thân phận
nàng Kiều, chúng ta hãy xem những bộ mặt người đứng bên kia – những nguyên nhân
trực tiếp của mọi nỗi thống khổ của nàng – qua cách miêu tả cũng là lối thể hiện
thái độ của Nguyễn Du. Với Mã Giám sinh, Tú Bà, Sở Khanh, đó là những tiếng chửi
dân dã: “giống hôi tanh”, “mặt mo”, “phường bán thịt, quân buôn
người”. Bộ mặt Hồ Tôn Hiến thì lại được phác thảo trang trọng, uy nghi nhất:
“Quan Tổng đốc trọng thần”, “kinh luân gồm tài”, “vâng chỉ đặc
sai”. Trong khi những Tú Bà, Mã, Sở... là phản diện, thì Hồ Tôn Hiến là
hình ảnh chính diện, đại diện chính thức của xã hội phong kiến. Ta đừng nên suy
diễn theo lối dân gian gán cho hai chữ “quân tử” mọi nghĩa tốt đẹp ở đời
để rồi gọi Hồ Tôn Hiến là nguỵ quân tử là không đúng: Hồ Tôn Hiến đáp ứng
đầy đủ nội dung của các định nghĩa của Khổng Tử về “quân tử”. Tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ! Tu thân ư? Thì Hồ đã biết hổ thẹn cho cái phương diện quốc
gia của mình sau khi chung đụng với gái giang hồ là nàng Kiều:
Phải tuồng trăng
gió hay sao?
Hỡi ôi, chính cái nỗi
hổ thẹn của Hồ Tôn Hiến mới thật sự chôn vùi vĩnh viễn nàng Kiều, mới diệt trừ
tận gốc mọi niềm kiêu hãnh làm người của nàng, mới cho nàng nếm trải đến cái nhục
nhã tột cùng của kiếp người. Sau cái lằn mức đó thì cái chết xem ra là giải
thoát nhẹ nhàng thanh thản nhất.
Thái độ nàng Kiều
trong cái đêm oan nghiệt ấy mới thật lạ lùng. Một nàng Kiều biết phản kháng và
dám phản kháng, giờ chỉ còn khóc lóc và tuân phục. Một nàng Kiều có tâm hồn cực
kỳ mẫn cảm, bây giờ như một cái máy vô hồn nhất nhất theo lời người khác.
Đôi hàng nước mắt
đôi làn sóng,
Nửa đám ma chồng nửa
tiệc quan
Tổng đốc ví thương
người bạc phận
Tiền Đường chưa chắc
mả hồng nhan
Cái bi phẫn của nhà
nho thi sĩ kia về cách hành xử của nàng Kiều đêm ấy, dù hơi quá cay độc, chưa hẳn
là không có lý. Tất cả diễn ra vào cái đêm ngay sau buổi chiều mà Kiều phục xuống
tạ tội với Từ. Từ Hải, đối với Kiều, còn hơn một người chồng.
Người ta nói đến việc
Kiều ngang nhiên ca tụng Từ Hải trước mặt Hồ Tôn Hiến. Và rồi người ta không thể
hiểu nổi, và linh hồn Từ Hải sẽ ngỡ ngàng biết bao trước cái cảnh người phu
nhân yêu dấu “tâm phúc tương tri” vốn được Từ vớt ra khỏi bụi lầm đưa
lên ngôi hiển quý, nay đang hạ mình xin xỏ lòng thương hại nơi kẻ thù của Từ
Xin cho thiển thổ một
đôi,
Gọi là đắp điếm lấy
người tử sinh.
Ta nên lưu ý điều này:
Hồ Tôn Hiến, với danh nghĩa chính thống đã tiêu diệt Từ, dập tắt Từ, là kẻ thù
của Từ Hải, nhưng trước sau chắc chắn không hề là kẻ thù của Kiều. Hồ Tôn Hiến
có ghi công nàng trong thắng lợi của mình. Kiều cũng đã nhận công ấy, dù chỉ là
“công ít, tội nhiều”. Tam Hợp đạo cô cũng nhắc công ấy khi nói đến phán
xét của Trời “hại một người cứu muôn người”. Nghĩa là cái việc vô tình của
Kiều khi khuyên Từ Hải ra hàng, bây giờ trở thành hữu ý. Từ Hải và triều đình
(thông qua Hồ Tôn Hiến) là hai phe đối nghịch. Vậy Kiều đứng về phe nào? Câu hỏi
này xin gửi cụ Nguyễn Du. Không, Kiều không lựa chọn.
Một số nhà phê bình
như Hoài Thanh cho rằng Từ Hải là hình bóng một lãnh tụ khởi nghĩa, và hình tượng
Từ là giấc mơ tự do, mơ công lý. Đúng, chỉ đến khi với Từ Hải, Kiều mới có tự
do, và mượn quyền uy của Từ, Kiều đã có lần nắm lấy cán cân công lý. Không sai,
nếu ta cho rằng đây chính là giấc mơ của Nguyễn Du. Qua giấc mơ này, quyền làm
người của Kiều đã được lập lại sau bao tan nát.
Bây giờ ta hãy xét cái
quyền làm người ấy đã được tiếp nối thế nào dưới tay Hồ Tôn Hiến. Dưới mắt Hồ
Tôn Hiến, Kiều là ai? Dĩ nhiên, sau khi (Từ Hải) thất trận, Kiều không hề là đại
vương phu nhân, là người đàn bà tài trí “cũng dự quân trung luận bàn” mà
nhờ đó kế của Hồ mới thành. Hồ công cũng có “ân cần hỏi han”, cũng “thương
tình” nghe lời xin của Kiều mà cho quấn cỏ quanh xác Từ Hải vùi sơ sài ven
sông. Rồi khi bắt nàng “thị yến dưới màn/ Dở say, lại ép cung đàn nhặt
tâu”, rồi đến lúc “rạng ngày nhớ ra”, tất cả những việc mà người đời
bảo là “dở trò dâm ô” ấy, Hồ làm một cách điềm nhiên, thản nhiên đến thế,
ta mới hiểu ra rằng: dưới mắt Hồ, Kiều chỉ là một con hát, không hơn, không
kém. Đó là điểm rơi của Kiều, kể từ khi mơ “được thấy mây rồng”, đến khi
“phỉ nguyền sánh phượng đẹp duyên cưỡi rồng”, rồi lên nữa, đã có lúc
cùng Từ Hải sánh vai ngồi giữa trướng hùm, lên đến đỉnh tót vời của tự do ý
chí: vung ngàn vàng báo ân và hạ lưỡi đao báo oán, thì giờ đây: thân cát bụi lại
trở về cát bụi, cái tấm thân khiến người dính dáng đến nó phải hổ thẹn, tìm
cách xí xoá là gả cho thổ quan để đáp lại cái nguyện ước nhỏ nhoi của nàng “được
thấy gốc phần là may”.
Khi bị Hoạn Thư vùi liễu
dập hoa, làm cho không ngẩng được mặt lên, Kiều đau hơn là nhục, cái đau bị
chia uyên rẽ thuý hơn là cái đau thể xác. Ghen với Kiều, Hoạn Thư còn coi Kiều
là đối thủ, là tình địch, và những mưu chước hiểm ác lạ đời kia chính là để đối
phó với sức quyến rũ mê hồn của Kiều mà Hoạn Thư tự biết mình không sánh nổi. Với
Hồ Tôn Hiến, Kiều không có cái hân hạnh ấy. Từ Hải bị tiêu diệt, thân phận Kiều
trở về con số không. Kiều đã được ân cần hỏi han ý kiến, và khi nghe cái
ước nguyện của Kiều chỉ là
Hơi tàn được thấy gốc
phần là may
thì đây
Quyết tình, Hồ mới
đoán ngay một bài.
Lệnh quan ai dám
cãi lời,
Ép nàng mới gán cho
người thổ quan.
Phải rồi, lệnh quan
thì ai dám cãi, và mọi đau đớn dập vùi chỉ là do ông tơ kia đã vơ quàng vơ
xiên!
Hoạn Thư khi xem qua tờ
thân cung biết được cảnh ngộ của Kiều, đã động lòng trắc ẩn
Rằng: tài nên trọng
mà tình nên thương
cho ra ở Quan Âm Các,
cách giải tình thế của Hoạn Thư cũng là mở cửa cho Kiều. Quyết sách của Hoạn
Thư thật là sâu sắc: để cách ly Kiều, còn gì hay bằng cho nhờ Cửa Không,
nếu thành tâm theo Phật, lửa lòng nào chả tắt! Đó chính là nguyện ước của Kiều,
mà Kiều không theo được. So sánh với cách hành xử sau này của Kiều khi muốn báo
oán, thi sĩ Bùi Giáng đã hài hước cho rằng Hoạn Thư có chỗ còn “quân tử” hơn Kiều.
Vâng, ông thật chí lý, nếu như các nhà nho ta có thể nuốt trôi cái khái niệm
“quân tử-gái”, thưa Bùi tiên sinh!
Sau khi
Kiệu hoa áp thẳng
xuống thuyền
số phận Kiều diễn biến
thế nào ta đã biết. Để thoát ra khỏi cái tình thế khó xử (sự này biết tính
thế nào được đây?) Hồ đã quyết một bài được một công đôi việc: thổ quan được
trả công hậu hỹ, mà cái “phương diện quốc gia” kia được bảo toàn trọn vẹn.
Qua bao thăng trầm, rõ
ràng đây là điểm thấp nhất mà phận Kiều rơi xuống.
Ta thấy rõ ở đây, từ
khi nói đến chuyện ra hàng, ý nghĩ của Kiều luẩn quẩn bao nhiêu, đụng đến chính
thống và phản kháng, Nguyễn Du lại mâu thuẫn bấy nhiêu. Thuý Kiều bị giằng
xé hay Nguyễn Du bị giằng xé?
Kiều đã ba lần thuyết
phục các người tình của mình. Với Kim Trọng, là thuyết về chữ TRINH, hay là giữ
gìn sự trong sáng và bền chặt của tình yêu. Với Thúc Sinh là phương sách để vừa
giữ yên gia đạo vừa định rõ danh phận của Kiều. Hai lần ấy, lần nào lý lẽ cũng
rạch ròi, phân minh, tỏ tường, sắc sảo, và cũng là những ý nghĩ của chính nàng.
Nhưng đến lý lẽ thuyết phục Từ Hải ra hàng thì ta thấy không xuôi. Nó như một
bài đọc thuộc lòng kinh sách. Với Từ Hải:
Dọc ngang nào biết
trên đầu có ai
thì nàng có câu:
Ai ai cũng đội trên
đầu xiết bao.
Với Từ Hải:
Vào luồn ra cúi
công hầu mà chi
thì nàng đã có lý lẽ:
Công danh ai dứt lối
nào cho qua
v.v.
Thật là ông nói gà bà
nói vịt. Chưa hết,
Trên vì nước dưới
vì nhà,
Một là đắc hiếu hai
là đắc trung
phải chăng là tâm sự của
nàng Kiều, chữ TRUNG phải chăng là bổn phận của một người con gái lê thân qua
kiếp phong trần và gửi gắm cuộc đời vào kẻ phản loạn? Câu hỏi này xin gửi cụ
Nguyễn Du. Không, chính cụ cũng chưa trả lời được câu hỏi ấy cho mình.
Không thể nào bảo rằng
những dằn vặt này không phải là một phần quan trọng trong tư tưởng Nguyễn Du. Bằng
hiển ngôn, Nguyễn Du không tố cáo, ông chỉ phơi bày. Nhưng nỗi lòng thật của
mình, ông không giấu được, và cũng không muốn giấu.
CUỘC ĐỜI KIỀU QUA CÁI NHÌN PHẬT GIÁO
Những ai học Phật đều
cảm thấy mình đi dưới bầu trời tự do tư tưởng. Phật không độc quyền nắm giữ
chân lý. Dĩ nhiên người muốn theo Phật thì phải có niềm tin vào Phật, nhưng vẫn
có thể tôn trọng những niềm tin khác. Qua hai mươi lăm thế kỷ hệ tư tưởng Phật
giáo đã phát triển ra vô số hệ phái với nhiều cấp độ khác nhau. Cần phân biệt
trong đạo Phật hai phương diện: triết học và tôn giáo; trong đó tôn giáo là nơi
lý trí bất lực và chỉ còn lòng tin là chỗ dựa duy nhất. Cả hai phương diện
ấy đều có trong Truyện Kiều, và phương diện triết lý thậm chí có
phần mờ nhạt hơn.
1. Nghiệp
Ý niệm về nghiệp được
bộc lộ rõ trong Truyện Kiều. Nguyễn Du viết: “Đã mang lấy nghiệp vào thân/
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”. Tuy nhiên, tư tưởng này không phải
là chủ đạo, nó có thể chung sống với các tư tưởng khác chứ không hoàn toàn
lấn át.
Ngẫm hay muôn sự tại
trời
Trời kia đã bắt làm
người có thân.
Bắt phong trần phải
phong trần
Cho thanh cao mới
được phần thanh cao
Có đâu thiên vị người
nào,
Chữ tài, chữ mệnh,
dồi dào cả hai.
Có tài mà cậy chi
tài?
Chữ tài đi với chữ
tai một vần
Ðã mang lấy nghiệp
vào thân
Cũng đừng trách lẫn
trời gần trời xa
Thiện căn ở tại
lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng
ba chữ tài
Trong đoạn thơ trên
đây, mở đầu bằng chữ Ngẫm hay, toàn là phát biểu của Nguyễn Du, chứ đâu
phải chỉ bốn câu cuối nói riêng về nghiệp, như có người cho rằng tác giả
hoàn toàn chủ trương theo Phật giáo.
Câu thơ “Trời kia
đã bắt làm người có thân” được hiểu là thân nghiệp. Nếu đúng thế thì ở câu
này đã là tư tưởng Phật giáo. Nhưng câu này lại liền mạch tư tưởng với bốn câu
sau, nói về tài- mệnh. Ngay cả câu “Trời kia đã bắt làm người có thân”
cũng gợi cho ta nghĩ ngay đến câu “Ngô sở dĩ hữu đại hoạn giả vị ngô hữu
thân. Cập ngô vô thân, ngô hữu hà hoạn?” của Lão Tử, dù cho có thể đây là
chỗ gặp nhau giữa Phật và Lão. Ngay chữ “thiện căn” cũng có thể thấy nó
khá gần với “tính bản thiện” của Mạnh Tử.
Ở đây cũng như ở những
chỗ khác, Nguyễn Du không dùng tư tưởng Phật giáo để phê bình Nho giáo. Ông chỉ
nói lên tư tưởng của mình, một tư tưởng hỗn hợp cả Phật - Lão - Nho, cả những
tâm lý đã tồn tại dài lâu trong dân chúng, niềm tin ngây thơ về một ông trời
thưởng phạt, vốn rất xa với tư tưởng Phật học. Rất có thể Nguyễn Du thiên về Phật
hơn Nho, nhưng điều đó ông không có hàm ý ở đây. Sự so sánh đánh giá nằm ở chủ
quan người đọc.
2. Sự thuần nhất của
tư tưởng Phật học trong Kiều
Một điều đáng chú ý là
trong truyện Kiều, người nói lên cái tư tưởng về nhân quả, về nghiệp lại chính
là Đạm Tiên, một bóng ma, Hội viên Hội Đoạn Trường, một hiện thân của thuyết
Tài-Mệnh tương đố:
“Âu đành quả kiếp
nhân duyên”
(câu 201, Báo mộng lần
thứ nhất)
“Rỉ rằng: nhân quả
dở dang
Đã toan trốn nợ đoạn
tràng được sao,
Số còn nặng nợ má
đào
Người dù muốn quyết,
trời nào đã cho”
(câu 995-998, Báo mộng
lần thứ hai)
Cái tiền oan nghiệp
trái ở đây được xử lý bởi một ông trời!
Nhân vật thứ hai diễn
giải về chữ NGHIỆP của Kiều là Tam Hợp đạo cô, là người mà Giác Duyên, người
quan tâm đến vận mệnh của Kiều thường tham vấn. Bà đạo cô này là một tiên tri,
thường hé hộ thiên cơ, cả đến sự cân nhắc thưởng phạt của trời, chính nhờ bà này
mách trước địa điểm (sẽ) gieo mình của Kiều mà Giác Duyên đón vớt được nàng,
tạo ra cơ hội tái sinh, chuyển nghiệp! Trên bình diện tư tưởng, Tam Hợp đạo cô
(cái tên có nói lên gì về hợp lưu của ba đạo không nhỉ) phải được coi ngang
hàng với thầy phi phù trí quỷ ở chỗ Thúc Sinh, một dạng mê tín dị đoan mà các bậc
chân tu luôn bài bác.
Theo Hoàng Ngọc Hiến:
“Tư tưởng “nhân
quả” khẳng định quan hệ nhân quả giữa kiếp này và kiếp trước, kiếp sau.
Nội dung hình tượng Truyện Kiều chỉ nói về kiếp này của nàng Kiều. Như vậy,
quan hệ “nhân quả” không được bộc lộ ở ngay nội dung của tác phẩm.
Ðó là một quan hệ không có nội dung… Như vậy trong Truyện Kiều, triết lý Phật
giáo là ngôn ngữ Phật giáo, là những lời giải thích nhưng không phải phải là ý
nghĩa đích thực của nội dung hình tượng tác phẩm. [ii]
Theo chúng tôi, chỗ
này Hoàng Ngọc Hiến nói đúng vì nhân “Hiếu Tâm” động đến Trời với quả
“đoàn viên” phúc sau dồi dào, qua lời Tam Hợp, không phải là ý nghĩa chữ nghiệp
của đạo Phật. Trong chữ nghiệp của đạo Phật không có ông trời.....
3. Tu là cỗi phúc,
tình là dây oan
“Tu là cỗi phúc,
tình là dây oan” lời phát biểu của đạo cô Tam Hợp đúng là tư tưởng đạo Phật,
có lẽ cũng là suy nghĩ của chính Nguyễn Du. Lý trí nghe Phật dạy “tình là dây
oan” là ái dục là vô minh che lấp bản thể, nhưng trái tim nghệ sĩ lại rung động
sâu xa để viết lên những dòng thơ tả tình đẹp đến nao lòng, với những xúc động
ngọt ngào gợi lên hạnh phúc đích thực của tình yêu trần tục.
Lựa chọn của Kiều giữa
TU và TÌNH: Sau khi được cứu vớt, cùng Giác Duyên ở lều tranh bên sông Tiền Đường,
với Kiều, tu là chuyện đương nhiên, nhưng trước đó Kiều đã có đến hai cơ hội để
tu.
Lần đầu ở nhà Hoạn
Thư, qua tờ thân cung nàng xin nhờ cửa Không, đã được chấp thuận cho ra ở
Quan âm các, kiểu tu hành thật là sang trọng. Nếu nàng thật khôn ngoan và tỉnh
táo, thì phải đủ sức cắt hẳn mối tình vô vọng ấy, và sự thể chắc đã khác. Nhưng
mối tình với Thúc Sinh, một mối tình đã khiến Nguyễn Du viết nên những câu thơ
đẹp nhất trong văn chương Việt
(Rừng phong thu đã
nhuốm màu quan san /
Dặm hồng bụi cuốn
chinh an,
trông người đã khuất
mấy ngàn dâu xanh
...
Vừng trăng ai xẻ
làm đôi /
nửa soi gối chiếc,
nửa soi dặm trường,
hay:
Long lanh đáy nước
in trời,
thành xây khói biếc
non phơi bóng vàng…)
còn quá nặng, quá ám ảnh,
tâm trạng nàng những là “nhân duyên đâu lại còn mong?”còn tiếc lắm, còn
đau lắm, đến nỗi “Phật tiền thảm lấp sầu vùi”, vẫn “nói lời trước mặt,
rơi châu vắng người”. Chủ tâm Hoạn Thư không phải muốn hành hạ Kiều, mà chỉ
muốn cách ly Kiều khỏi Thúc Sinh. Nhưng chính sự chia cắt ấy đối với Kiều mới
là đau đớn nhất. Đến khi có cơ hội lén gặp nhau, thì “nói rồi lại nói, lời
chưa hết lời”, để lúc bị Hoạn Thư bắt gặp mới hốt hoảng đến thế, mới tính
bài chạy trốn. Kiều xin Thúc Sinh “liệu bài mở cửa cho ra” nhưng cánh cửa
ấy Hoạn Thư đã mở rồi mà Kiều không biết. Đây chính là lúc tình che mờ trí, đến
nỗi không chỉ Thúc Sinh thấp cơ thua trí đàn bà mà cả Kiều cũng thua!
Lần thứ hai tu ở Chiêu
ẩn am với Giác Duyên thì bị chính Giác Duyên vì quá khiếp sợ trước uy quyền nhà
họ Hoạn mà vô tình đẩy vào tay họ Bạc.
Trong suốt quãng đời
chìm nổi, thân phận Kiều đã gợi được niềm thương cảm của nhiều người, nhưng Kiều
ít có dịp thể hiện lòng từ bi của mình với người khác. Vụ báo ân báo oán khi Kiều
được tựa lưng vào quyền lực của Từ, đã gây thêm nghiệp xấu. Người ta thường đọc
xuôi theo truyện Kiều “Đạo Trời báo phục”, “Lồng lộng trời
cao, hại nhân nhân hại” rồi “trước sau trọn vẹn xa gần ngợi khen” để
cho hành động báo ân báo oán ấy một danh nghĩa cao đẹp: thực thi công lý, thoả
mãn nỗi khát khao công lý của chúng dân, mà không nhận ra rằng nó chỉ thoả mãn
cá nhân nàng Kiều. Có thể hiểu được hành xử của nàng trong một xã
hội không có pháp luật, công lý và lẽ phải ở trong tay kẻ có quyền,
khi nàng một lúc đóng hai vai: người bị hại và quan toà. Tuy nhiên, lẽ
ra sau bước chuyển biến to lớn của số phận – kết duyên cùng Từ Hải – và sau chừng
ấy thời gian, Kiều đã có thể quên đi mọi hận thù để chỉ giữ trong lòng niềm
thương nhớ cố hương và ước ao đoàn tụ. Nhưng nàng đã để nó đè nặng trong lòng đến
nỗi chỉ sau khi có đầu rơi máu chảy, bể oan mới “dường đã vơi vơi cạnh lòng”.
Hai chữ “khư khư” của bà Tam Hợp nói về Kiều đâu chỉ đúng với chữ Tình.
Cái “phiên toà” mà Kiều làm chủ, nghĩa là sẽ gánh hết trách nhiệm ấy, nếu đúng,
chưa chắc đã hay, thế mà còn có lầm, khi cho tuốt tuột từ Tú Bà đến Ưng Khuyển
chịu chung một tội hình. Sai lầm ấy từ cõi lòng sân hận quá đỗi mà ra. Chủ trương báo oán hoàn toàn trái với giáo huấn
của đạo Phật (oan oan tương báo). Ngay cả việc đem ngàn
vàng để trả ơn bát cơm Phiếu mẫu, và những lời đối đáp với Hoạn Thư chỉ bộc lộ
rõ cái ngã mạn của Kiều. Câu nói chối tai nhất thốt ra từ miệng Kiều là
câu “Xem cho rõ mặt biết tôi báo thù” và hành vi kỳ lạ nhất là mời sư
Giác Duyên chứng kiến cuộc báo thù ấy! Nếu sau này có lúc nhờ Phật mà “túc
khiên đã rửa lâng lâng sạch rồi” thì Kiều nên nghĩ lại để nhìn Tú Bà hay
Ưng Khuyển, Thúc Sinh với cùng tấm lòng từ bi độ lượng như nhau. Sau cuộc báo
oán, Kiều đã lạy tạ Từ Hải đến câu “Dễ đem gan óc đền nghì trời mây”nhưng
rốt cuộc nàng Kiều có tiếng là “ân oán rạch ròi”, “trước sau
trọn vẹn” ấy chỉ làm được cái việc cầu xin một nấm đất cho cái xác tàn của
Từ, một việc mà nếu chứng kiến chắc Từ phải chết đến lần thứ hai. Nhưng ta cũng
phải thể tất cho Kiều, trong tay Từ Hải và trong tay Hồ Tôn Hiến là hai hoàn cảnh
khác nhau, với Từ là có tự do và có cả quyền lực nữa, còn với Hồ thì nàng có
gì?
4. Đoàn viên và
chuyển nghiệp
Có hai loại ý kiến
khác nhau về các giải pháp có thể có cho số phận Kiều trong truyện: “kết
thúc ở sông Tiền Đường” hay “tái sinh và tái hợp”. Giải pháp nghệ
thuật “kết thúc ở sông Tiền Đường”là ý muốn trung thành với lôgích của
hiện thực, đó là tâm trạng phải chấp nhận thực tế, dù nó cay đắng thế nào. Câu
chuyện Giác Duyên vì biết được mệnh trời mà đón vớt nàng Kiều khó được những
người có đầu óc thực tế chấp nhận. Giải pháp “tái sinh và đoàn viên” thể
hiện ước mong, hy vọng thiết tha của tác giả và người đọc. Hy vọng, ước mong có
đem đến giải thoát thực sự hay không lại là chuyện khác. Ở đây tác giả đưa yếu
tố phi thực vào là do quá thương yêu con người, không nỡ nhìn nàng mãi đau khổ
và không muốn kết thúc truyện trong bế tắc nên bằng tưởng tượng của mình đã mở
ra lối thoát. Triển khai ý niệm đoàn viên, tác giả lại mở ra một hướng hiện thực
mới, hiện thực của Tâm hồn. Giải pháp này phản ánh quan điểm nghệ thuật của
Nguyễn Du (đúng hơn là của Thanh Tâm tài nhân – ta luôn luôn thấy Nguyễn Du chỉ
diễn đạt các sự kiện bằng bút pháp và cái tâm của riêng mình, không có ý định sửa
đổi nguyên tác).
Có ý kiến cho rằng
Hiếu tâm của Kiều đã cảm động đến Trời, và là nguyên nhân đem đến “phúc
sau dồi dào” – một tác nhân chuyển nghiệp trong hiện kiếp. Tôi chỉ
thấy hành động hiếu (bán mình) của Kiều là điều kiện để cứu gia đình khỏi tai
vạ nhất thời. Trước khi tai vạ xảy ra, đang là MỘT NHÀ êm ấm. Sau thời điểm ly
tán ấy “người đàn ông” Kim Trọng một tay cáng đáng, khôi phục, nâng đỡ gia đình
trong suốt 15 năm qua cảnh ngặt nghèo; Kim cùng bốn người nhà họ Vương luôn đi
cùng một nẻo, còn Thuý Kiều lưu lạc nẻo khác. Khi đoàn viên, lại hợp MỘT NHÀ
“Một nhà phúc lộc gồm
hai”
Chữ Phúc ở đây phải hiểu
theo hai nghĩa: giàu sang vinh hiển trong cõi tục hay niềm hoan lạc của tâm
linh đã được giải thoát? Đạo Phật cho rằng nghĩa thứ hai cao hơn nghĩa trước.
Chúng tôi nghĩ rằng ở đây gồm hai cảnh: Kim - Vân hưởng giàu sang vinh hiển, do
thành quả công lao của Kim. Kiều vui với cái tâm đang tìm đến Niết bàn (Chẳng
tu thì cũng như tu mới là) sau khi đã bén mùi thiền. Bởi vậy “hợp” mà không
“hợp” và theo nghĩa của đạo Phật, đó mới là “điều kiện của phúc sau dồi dào”.
Hãy thử tưởng tượng nếu cả nhà không tìm được Kiều? Thì vẫn cứ “phúc lộc, quan
giai lần lần” dù nhớ thương khôn nguôi! Hay nếu như Kiều cũng theo thói thường
trở về với tục? Thì câu chuyện sẽ chẳng còn gì để nói! Vậy thì ở đây là chuyển
nghiệp hay chuyển tâm?
5. Không và Thiền
Chúng ta biết rằng
Nguyễn Du đã “nghìn lần đọc kinh Kim Cương”, như ông nói. Nhưng vấn đề là tư
tưởng Phật học ấy được biểu hiện trong Truyện Kiều như thế nào? Tư tưởng bát
nhã cao siêu ấy thể hiện ở đâu khác nhưng không phải bật lên từ chính hình
tượng trong truyện Kiều. Cảnh tượng đoàn viên, xét cho cùng, cũng chỉ là cái kết
thúc có hậu giống như trong Nhị Độ Mai, Lục Vân Tiên, Hoa Tiên, Tấm Cám, Phạm
Công Cúc Hoa...
Về chặng đường
“giác ngộ” của Kiều, Nguyễn Ðăng Thục viết:
Tâm hồn Kiều trước
kia đang còn vọng động, bắt đầu bước vào trường đời, còn ngày nay thì bình tĩnh
vì đã biết qua kinh nghiệm bản thân đến chỗ giác ngộ.
Đúng. Nhưng để giác ngộ
đâu có đơn giản dễ dàng. Kinh nghiệm và khát khao là cần nhưng chưa đủ. Để đủ,
còn cần có hai điều kiện: Một là, trên bình diện đạo, ngoài kinh nghiệm đời (bể
khổ) điều quan trọng hơn là phải có kinh nghiệm tu (giải thoát). Hai là, trên
bình diện đời, bể khổ của đời thật sự đã vơi đi. Nếu thân vẫn quằn quại trong bể
khổ mà Tâm đã được giải thoát, thì phải là trình độ siêu việt, chẳng hạn như
Mãn Giác thiền sư trong cơn bệnh trọng vẫn chỉ cho người khác nhìn nhành mai nở
buổi xuân tàn hoa rụng hết. Chớ tưởng lầm rằng thần lực của tâm thiền có thể biến
hoa tàn thành hoa nở, có thể đẩy lui cơn ác bệnh đang hành hạ thân mình. Chính
là trong cõi tâm không vọng động có một bông hoa luôn mãi nở tươi cho dù ngoài
kia, trong cõi vô thường có lúc hoa tàn hết. “Phải nhìn sự vô thường trong viễn
tượng của một mùa xuân lại về…”. Cách nhìn đẹp đấy, nhưng nếu trong đời thực,
trong cõi vô thường ấy nó không về, hay trong cái hữu hạn của một đời người, nó
chưa kịp về? Thì xin hãy nhìn vào trong TÂM để tìm lấy mùa xuân trong ấy. Không
thể lấy cái nhìn lạc quan, lấy ước mơ khát vọng thay cho cái nhìn thẳng vào mặt
thật của đời sống, vì đó cũng là mê lầm không kém phần nguy hại.
Nguyễn Du chắc hằng
tâm niệm lời dạy của Phật trong Kinh Kim Cương “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ
tâm” nhờ đó mà Lục tổ Huệ Năng cũng như Trần Thái Tông đã bừng ngộ. Với Kiều,
cái Tâm vướng luỵ nhất là ở cõi Tình, vậy trình độ tâm linh của Kiều đạt tới mức
nào để được gọi là giác ngộ? Như trên ta đã biết, hai lần Kiều ở chùa đều là miễn
cưỡng: ở Quan Âm các là tạm chấp nhận để thoát cảnh khổ nhục của kiếp hoa nô (Nhân
duyên đâu lại còn mong/ Khỏi điều thẹn phấn tủi hồng thì thôi) lần sau ở
Chiêu Ẩn am là tìm nơi độ thân khi bơ vơ chưa biết đi đâu (Gửi thân được chốn
am mây/ Muối dưa đắp đổi […]). Ảnh hưởng của Phật không thể không
có, nhưng nó đến từ từ. Lần đầu “Dường gần rừng tía dường xa bụi hồng”
những tưởng “[…] giọt nước cành dương/ Lửa lòng rưới tắt mọi đường trần
duyên” nhưng chưa tắt hẳn. Con đường tu Phật vừa đòi hỏi, vừa tạo điều kiện
để thoát khỏi chữ Tình. Chỉ đến khi gặp lại gia đình, nàng mới có lời tiếp tục
chọn đường tu khi trả lời cha:
Đã đem mình gửi am
mây,
Tuổi này bạn với cỏ
cây cũng vừa,
Mùi thiền đã bén muối
dưa,
Màu thiền ăn mặc đã
ưa nâu sồng.
Sự đời đã tắt lửa
lòng,
Còn chen vào chốn bụi
hồng làm chi
Lựa chọn của Kiều
trong việc nối lại với Kim Trọng, “đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ”chính
là lựa chọn của một tâm hồn đã bén mùi thiền, cũng có nghĩa là những khao khát
duyên tình trong nàng đã thật sự nhạt phai. “Sự đời đã tắt lửa lòng”
không phải chỉ là câu nói buông xuôi. Chỉ có nhờ nó mà nàng mới giữ được sự yên
tĩnh của tâm hồn. “Khi chén rượu, khi cuộc cờ/ Khi xem hoa nở khi chờ trăng
lên” là cái phong độ thanh nhàn không bị câu thúc vì những bức bách của đời
sống hay khát khao bản năng. Có thể nghĩ Kiều đã tìm thấy tự do nội tâm, đã tìm
được cách làm chủ đời mình, điều mà trong suốt quãng đời luân lạc trước kia,
nàng chưa bao giờ có được. Có lẽ không chuyên tâm về tu Phật, nhưng cũng đã xa
tục luỵ lắm rồi. “Chẳng tu thì cũng như tu mới là.”
6. Ái và Dâm
Khi cân nhắc công-tội
Thuý Kiều, Tam Hợp đạo cô cho rằng Kiều có “tình tiết giảm nhẹ” là “mắc
điều tình ái” (tội nhẹ hơn) “khỏi điều tà dâm”(tội nặng). Có công bằng
không khi xã hội đẩy Kiều vào chỗ ô uế phục vụ cho những “giống hôi tanh”,
trái ngược với ý chí của nàng muốn giữ “thân nghìn vàng”, mà lại luận về
nàng Dâm hay không Dâm, trong khi cả linh hồn nàng, cả cuộc đời nàng là một biểu
tượng chống lại nó. Người ta thường ca ngợi chữ Trinh ở Kiều, với nghĩa
rằng ngoài việc bị bán làm trò mua vui thân xác cho kẻ khác, tình
yêu ở nàng phải thuần tuý platonisme, còn nếu không thế là “dâm”.
Chúng tôi không hiểu nội
hàm của chữ “dâm” ở đây. Nếu chỉ là “quan hệ xác thịt” giữa những người yêu
nhau, thì đó cũng chính là tình yêu, sao có thể gọi là tà dâm? Và khi yêu thì cả
hai đều có quyền tự do lựa chọn. Nếu là quan hệ “không có tình yêu”, chẳng hạn
quan hệ mua bán (như Mã Giám Sinh) hay cưỡng bức (như Hồ Tôn Hiến), thì đó là
dâm, là vô đạo đức, nhưng trong trường hợp này người đàn bà là nạn nhân, là nô
lệ.
Trong đời người đàn bà
đa tình Thuý Kiều đã có ba cuộc tình đều sâu nặng ơn nghĩa, đều yêu bằng cả tâm
hồn. Chỉ riêng với Kim Trọng là chưa chăn gối, còn với Thúc Sinh, Từ Hải, đã là
vợ chồng. Tình chăn gối với Từ Hải được miêu tả thật cao sang lộng lẫy: “Đặt
giường thất bảo, vây màn bát tiên”. Đó là hôn nhân có tình yêu mãn nguyện “Phỉ
nguyền sánh phượng, đẹp duyên cưỡi rồng”. Nếu trong cuộc hợp hôn ấy Kiều
không hề cảm thấy ham muốn tình dục của chính nàng thì có gì là đẹp?
Hãy nên cảnh giác với
chữ TRINH vì nó rất gần, dễ lẫn với ý đồ nô dịch nữ giới, hạn chế người phụ nữ
trong cái vòng là phương tiện hay tài sản sở hữu của người chồng. Chữ TRINH
trong Truyện Kiều có ý nghĩa đặc thù là sự trong trắng của tâm hồn nàng Kiều,
mà Nguyễn Du có ý thức trân trọng giữ gìn (hay đúng ra không phải Nguyễn Du, mà
Thanh Tâm tài nhân đã giữ, nhưng Nguyễn Du đã nâng cao lên) cho nàng suốt cuộc
trầm luân.
“Bắt phong trần phải
phong trần/ Cho thanh cao mới được phần thanh cao”
Theo tôi hiểu thì Trời
chỉ bắt được phần xác, còn Kiều vẫn giữ được phần hồn (“Tâm”). Cái thanh
cao trong tâm nàng Kiều, đâu phải Trời cho. Nếu là bắt và cho thì phong trần
hay thanh cao chỉ là đày đoạ hay cho nhẹ nhàng phần thể xác, còn phần tâm hồn của
Kiều, luôn mãi thanh cao, không hề thay đổi (Bụi nào cho đục được mình ấy
vay).
7. Chữ Tâm
“Chữ Tâm kia mới bằng
ba chữ Tài”.
Nhiều người ra sức
ca ngợi chữ “Tâm” trong truyện Kiều, thậm chí coi nó là đỉnh cao nhất
trong tư tưởng, triết lý Nguyễn Du: Nguyễn Du có nói tâm, nhưng có rõ cái
TÂM nào đâu? Sự mù mờ về ngữ nghĩa của khái niệm – nội hàm thì mông lung nên
ngoại diên cũng nhập nhằng – vốn là điểm yếu của cách tư duy phương Đông thiếu
tính khoa học chặt chẽ, đôi khi lại được nâng lên thành ưu việt. Chính vì để mở
như thế nên mỗi người đọc có quyền hiểu theo cách của mình. Trong “Linh sơn
chỉ tại nhữ tâm đầu” – có một chữ tâm, nghĩa là “Phật chỉ có
trong tâm của ngươi, chứ không đâu khác”, hay đơn giản hơn, “Phật
tại Tâm” nhưng không thể coi nó cũng là chữ “Tâm” của Nguyễn Du khi
ông đem so nó với “Tài”. Không chỉ Phật mà giới Nho cũng nói nhiều nhất đến tâm,
có rất nhiều trường phái, nói chung tâm được hiểu là ý thức
chủ quan, thường do trời phú vì Trời với Người là một. Trong dân gian cũng hay
nói chữ Tâm, với nghĩa tấm lòng. “Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”.
Tâm được so với tài trong quan hệ với vận mệnh, hạnh phúc con người.
Để tìm kiếm hạnh phúc trong cuộc đời này thì đừng trông cậy nhiều vào tài, vì
nó rất dễ gây nhiều trắc trở tai hoạ. Trong mọi hoàn cảnh, hãy cứ trông vào cái
Tâm, vào tấm lòng vốn thiện của mình mới mong tìm thấy hạnh phúc đích thực.
Nàng Kiều với tài sắc nhường ấy mà cuộc đời
khổ nhục đến thế, cứ theo “triết lý” của Nguyễn Du, “Chữ
Tâm kia mới bằng ba chữ Tài”, lấy bài học của Kiều để răn đời, phải chăng
chính là Nguyễn Du thấy ở nàng thiếu một chữ “tâm”?
Kết
Nguyễn Du là một trong
những người học vấn uyên bác nhất trong thời đại mình, bởi vậy tư tưởng của ông
thể hiện trong tác phẩm, dù là tác phẩm dịch, hết sức phong phú, đa dạng, đa
chiều có khi mâu thuẫn, nhưng không cột chặt vào một lý thuyết duy nhất nào.
Nguyễn Du là một nghệ sĩ, không phải nhà tư tưởng, Truyện Kiều cũng không phải
tiểu thuyết hay kịch luận đề như “La Nausée” hay “Les Mouches” của J. P.
Sartre. Là một nghệ sĩ lớn đồng thời là một tri thức uyên thâm, ông đã thể hiện
nhiều tư tưởng của thời đại mình (Phật, Lão, Nho) và bộc lộ những thái độ, những
quan điểm đôi khi vượt trên thời đại. Đó cũng là triết lý, vả chăng, triết lý
nào chẳng mang đến một thái độ? Cái hay của Truyện Kiều dường như vô tận. Cách
của Nguyễn Du là miêu tả sự vật như nó có, tự nó nói lên và gây xúc cảm mãnh liệt
nơi người đọc. Truyện Kiều cũng như bất kỳ tác phẩm lớn nào, không chỉ có một
tư tưởng, dù là cao siêu. Nó luôn luôn chỉ là gợi ý để ta đào sâu suy ngẫm về Đạo
và đời, nó không chứng minh cho đạo và không thể dùng nó để chứng minh, vì nó rộng
lớn, phong phú hơn nhiều cái được chứng minh. Đọc lại Truyện Kiều hay đọc các
tác phẩm viết về Truyện Kiều đối với tôi bao giờ cũng thú vị vì nó cho thêm cơ
hội để suy ngẫm, thêm một lần thưởng ngoạn.
HT 2005 - 2015
[i] Xuân Diệu, “Bản cáo trạng cuối cùng trong Truyện
Kiều”, tuyển tập “Kỷ niệm 200 năm Nguyễn Du”, Nhà xb Khoa học Xã hội, 1965.
[ii] Hoàng Ngọc Hiến, “Triết lý Truyện Kiều” trong
“Kỷ niệm 200 năm Nguyễn Du (1765-1965)”, tr. 279, 281, 284.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét