Thứ Tư, 4 tháng 7, 2012

Thảm hoạ hạt nhân Nhật bản




1. Chernobyl Nhật Bản
2. Thảm hoạ ở Nhật Bản làm rung chuyển nền kinh tế toàn cầu
3. Rủi ro hạt nhân
4. Thảm hoạ hạt nhân ghê rợn ở Nhật Bản nguy hiểm đến mức nào?
5. Định mệnh Tokyo: Can đảm đối mặt với thảm họa

Chernobyl Nhật Bản
Fukushima Đánh dấu Kết thúc Kỷ nguyên Hạt nhân 

Ban Biên tập SPIEGEL.14/3/2011
http://www.spiegel.de/international/world/0,1518,750773-4,00.htmlhttp://www.spiegel.de/international 518,750773-4,00.htm/world/0,1

Ảnh AFP/ NHK 

Nhật Bản vẫn còn đang quay cuồng trong trận động đất lớn nhất từng biết, thì một vụ nổ ở nhà máy điện hạt nhân Fukushima hôm thứ Bẩy, tiêp theo là một giây thảm họa vào hôm thứ Hai. Mặc dù chính phủ bảo đảm, vẫn có một nỗi lo sợ về một Chernobyl khác. Tai nạn này đã làm bật lên một cuộc tranh cãi chính trị sôi sục ở Đức, và trông có vẻ như chấm dứt giấc mơ về năng lượng hạt nhân rẻ và an toàn.
Truyền hình Nhật Bản đưa những hình ảnh thảm họa đến hàng triệu phòng khách trên khắp đất nước, nơi những người xem kinh hoàng nhìn thấy một vụ nổ ở một lò phản ứng hạt nhân ở Fukushima.
Vụ nổ hôm thứ Bẩy thổi bay mái của tòa nhà lò phản ứng, đẩy một đám khói trắng dầy đặc lên trời. Khi khói tan, trong số bốn tòa nhà lò phản ứng màu trắng, chỉ còn nhìn thấy có ba.
Tòa nhà thứ tư chẳng còn lại gì ngoài cái vỏ trông ma quái.
Những bức tường ngoài của toà nhà lò phản ứng đã nổ tung. Lớp vỏ thép chứa các thanh nhiên liệu nóng đỏ hình như chịu được vụ nổ, nhưng thảm hoạ chính còn có thể ngăn ngừa được hay không vẫn còn là điều chưa rõ. Ngoài ra, bốn lò phản ứng hạt nhân nằm trong hai khu liên hợp phát điện Fukushima không hoàn toàn nằm trong tầm kiểm soát.

Vụ nổ thứ hai

Rồi sau đó, hôm thứ Hai, một vụ nổ thứ hai diễn ra ở nhà máy Daiichi, lần này liên quan đến lò phản ứng 3 của nhà máy. Vụ nổ làm bị thương 11 công nhân và và đẩy một cột khói khổng lồ lên không trung. Vẫn chưa rõ có bức xạ rò rỉ trong vụ nổ - dường như bởi sự tích tụ hydrogen - này không, một nhân viên vận hành nhà máy nói rằng mức phóng xạ tại lò phản ứng vẫn còn thấp hơn các giới hạn cho phép. Hoa Kỳ phản ứng với vụ nổ ngày thứ Hai bằng cách dời một trong những hàng không mẫu hạm của nó đang ở 100 dặm (160 km) ngoài khơi, ra khỏi khu vực này, sau khi phát hiện mức phóng xạ thấp trong vùng lân cận.
Ngay sau đó, chính phủ loan báo rằng hệ thống làm mát cho lò phản ứng số 2 của nhà máy cũng đã hư hỏng. Các vụ nổ ở các lò phản ứng 1 và 3 đã được báo trước bởi những sự cố tương tự. Hãng tin Jiji hôm thứ Hai báo cáo rằng mức nước ở lò phản ứng số 2 đã tụt xuống sâu đến mức đủ để lộ ra một phần các thanh nhiên liệu.
Các hình ảnh trên ti vi vào dịp cuối tuần qua không để cho ai nghi ngờ gì nữa: quốc đảo tiên tiến này rõ ràng đã trải qua thảm họa hạt nhân tồi tệ nhất cho đến ngày hôm nay trong thế kỷ 21, do trận động đất khủng khiếp nhất trong lịch sử Nhật Bản gây ra. 
Một thời gian ngắn sau vụ nổ ngày thứ Bẩy, Chánh Thư ký Nội các Yukio Edano xuất hiện trên kênh truyền hình chính để nói về tai nạn này - theo cách một thầy giáo nói với học trò của mình trong một chuyến đi của lớp về những việc họ sẽ làm sau đó. Rồi một chuyên gia về nhà máy điện hạt nhân, tóc hoa râm cùng lên ti vi với Edano kêu gọi dân chúng duy trì “reisei”, hãy yên tâm và bình tĩnh. 
Reisei, reisei: Cứ như thể chính phủ lo lắng về việc làm nguội những cái đầu của các công dân Nhật Bản hơn là những thanh nhiên liệu hạt nhân đã nóng chảy một phần.

Được khuyên ở trong nhà
Khi lò phản ứng nổ ở Chernobyl cách đây một phần tư thế kỷ, Liên Xô ngay lập tức đưa hàng nghìn công nhân đến để lấp cát và bọc chì các lõi lò phản ứng bị quá nhiệt. Cuối cùng gần như cả một triệu người tham gia vào đảm bảo an toàn cho lò phản ứng này. Nhưng lúc đó Liên Xô không phải đồng thời đối phó với các hậu quả của một trận động đất và một cơn sóng thần.
Những cố gắng của cảnh sát Nhật Bản sơ tán một khu vực rộng lớn xung quanh lò phản ứng có vẻ điên rồ hơn là bình tĩnh. Hàng ngàn người chạy xuống miền nam bằng ô tô riêng.
Trước hết, khó mà đánh giá mức độ nguy hiểm của phóng xạ trong vùng kế cận với lò phản ứng. Các chuyên gia tại chỗ báo cáo rằng mức phóng xạ đo được gần lò phản ứng là một sievert[1] trên giờ. Đây là một mức cao, nhưng không thể so sánh với mức 200 sievert trên giờ mà một số công nhân trực sự cố ở Chernobyl bị phơi nhiễm.
Trong một vụ phóng xạ phát ra từ lõi lò phản ứng bị chảy tan, nhiều chất phóng xạ khác nhau trong đó có plutonium và uranium, và các chất nguy hiểm iodine 131 và cesium 137, cũng làm ô nhiễm môi trường xung quanh Chernobyl. Đã có xác nhận rằng ít nhất một lượng nhỏ cesium cũng đã thoát ra ở Fukushima. Vào thứ Bẩy, Bộ trưởng Ngoại giao Đức, Guido Westerwelle, lãnh đạo Đảng Dân chủ Tự do (FDP) đã khuyên những người Đức nên rời khỏi các vùng bị ảnh hưởng của sóng thần và sự cố hạt nhân.
Một người phát ngôn của chính phủ Nhật Bản khuyên các công dân nên ở trong nhà, tắt máy điều hòa nhiệt độ và nếu cần, áp một chiếc khăn mặt ướt lên miệng. Tất cả những cái đó là dấu hiệu cho thấy phản ứng của một đất nước công nghiệp hóa đã vô vọng đến mức nào vào những giờ đầu tiên sau sự cố. 

Thái độ ngạo mạn 
Sự kiện là Nhật Bản, nước đã có thời được coi là thần kỳ kinh tế, đang đứng trên bờ vực của một thảm họa hạt nhân, có thể phá hủy nền công nghiệp hạt nhân nhiều hơn so với thảm họa lò từ phản ứng của Liên Xô ở Chernobyl cách đây một phần tư thế kỷ.
Mọi người đều biết, nước Nhật nằm trong khu vực có động đất, khiến nó dễ gặp nguy cơ hơn nhiều so với các nước như Đức và Pháp. Nhưng Nhật Bản tình cờ cũng là nước công nghiệp hàng đầu, một nước mà các kỹ sư được đào tạo tốt, nghiêm cẩn đến mức mô phạm đã chế tạo ra những chiếc xe hơi tối tân nhất và có độ tin cậy cao nhất thế giới.
Khi sự cố Chernobyl xảy ra, công nghiệp hạt nhân Đức cố gắng tự thuyết phục mình và các công dân Đức, rằng đó là tại các lò phản ứng già nua và các kỹ sư kém cỏi, cẩu thả của Đông Âu. Các lò phản ứng của Tây Âu, hay là nền công nghiệp khẳng định thế, là hiện đại hơn, được bảo dưỡng tốt hơn và đơn giản là an toàn hơn.
Bây giờ đã rõ cái thái độ tự tin ấy ngạo mạn như thế nào. Nếu một tai họa tầm cỡ ấy có thể xảy ra ở Nhật Bản, thì nó cũng có thể xảy ra dễ dàng như thế ở Đức. Chỉ cần có một chuỗi những tình huống tai hại thích hợp. Fukushima là bất cứ nơi nào.

Ngày 11/9 của công nghiệp hạt nhân.
Có vẻ như từ nay trở đi các nhà chính trị và các nhà khoa học sẽ có cái nhìn hoài nghi hơn về năng lượng hạt nhân. Đây là bằng chứng theo cách tranh luận công khai Bộ trưởng Môi trường Đức Norbert Röttgen, một thành viên của Liên minh Dân chủ Thiên chúa giáo trung hữu (CDU) của Thủ tướng Angela Merkel, phản ứng khi ông nghe nói về vụ nổ tại một lò phản ứng owr đầu bên kia của thế giới. Hôm thứ Bẩy, Röttgen nói với vợ ông rằng đây là “một sự kiện làm thay đổi tất cả.” Họ cảm thấy nhớ lại ngày 11/9, ngày khủng bố tấn công New York và Washington.
Một mối nguy trực tiếp đối với Đức có thể “được loại trừ trên thực tế,” Röttgen nói thêm rằng điều quan trọng nhất bây giờ là “thể hiện thông cảm với Nhật Bản, làm rõ tình hình và giúp đỡ.” Thủ tướng Merkel đã triệu tập một cuộc họp khủng hoảng tối thứ Bẩy.
Röttgen phản ứng giận dữ với cuộc tranh luận mới về hạt nhân diễn ra ở Đức vào cuối tuần qua. “Tôi cảm thấy đây là việc không cần thiết trong tình hình này, và thật sự là không đúng lúc,” ông nói. Bản thân Röttgen không muốn bình luận về những hậu quả đối với kế hoạch kéo dài tuổi thọ của các nhà máy điện hạt nhân ở Đức, gọi nó là một “cuộc thảo luận chính trị vào thời gian khác.”
Vấn đề các nhà máy điện hạt nhân của Đức nên duy trì hoạt động bao lâu nữa đã là chủ đề của một cuộc tranh cãi sôi nổi mấy năm gần đây. Tháng Mười năm ngoái, quốc hội Đức đã nhất trí kéo dài tuổi thọ của 17 nhà máy điện hạt nhân của đất nước, thật sự lật ngược kế hoạch loại bỏ từng bước điện hạt nhân đã được nhất trí dưới thời chính phủ Gerhard Schröder, người tiền nhiệm của Merkel. Theo luật mới, các nhà máy này sẽ tiếp tục hoạt động thêm một thời gian trung bình 12 năm mỗi cái, có nghĩa là nhà máy điện hạt nhân cuối cùng của Đức nay sẽ được trù tính đóng cửa vào năm 2035, chứ không phải năm 2021 là hạn chót như chính quyền Schröder dự kiến.
Tuy nhiên đạo luật này cũng có thể bị lật lại: năm bang do đảng Dân chủ Xã hội trung tả kiểm soát gần đây đã đưa ra khiếu nại với Tòa án Hiến pháp Đức chống lại việc kéo dài thời gian hoạt động của các nhà máy này.

Vận động trên một hành lang Chống-Hạt nhân
Đảng Xanh tất nhiên không đồng ý với đánh giá của Röttgen rằng đây không phải lúc nói về năng lượng hạt nhân ỏ Đức. Họ thấy thảm họa hạt nhân Nhật Bản là một dịp để thảo luận một trong những vấn đề cốt lõi truyền thống của họ với độ mãnh liệt mới. Những cuộc bầu cử quan trọng sắp diễn ra tại các bang tây nam Baden-Württemberg và Rhineland-Palatinate. Gần đây, Đảng Xanh đã không thành công lắm trong các cuộc điều tra dư luận. Bây giờ nó sẽ vận động trên một hành lang chống hạt nhân, đặc biệt khi Stefan Mappus (CDU) Thống đốc bang Baden-Württemberg là một người ủng hộ mạnh mẽ điện hạt nhân. Thomas Strobl, tổng thư ký CDU ở bang này, đã sẵn sàng lập kế hoạch tiến lên, nói rằng “Chúng ta không nên tiến hành một chiến dịch bầu cử trên sự đau khổ của người Nhật.”
Đảng Xanh không bị ấn tượng với những lời nói hoa mỹ đó. Jürgen Trittin, cựu bộ trưởng môi trường và là nghị sĩ lãnh đạo của đảng Xanh ở Bundestag, cảm thấy chính đáng trong nỗi hoài nghi của ông về điện hạt nhân. “Ngay cả một nước có công nghệ tiên tiến hiện đại như Nhật Bản cũng không miễn nhiễm với nguy cơ phóng xạ. Điều này cũng áp dụng đối với Đức, tại đây chúng ta thậm chí còn kéo dài tuổi thọ của các lò phản ứng hạt nhân cực kỳ mất an toàn như Neckarwestheim,” Trittin nói. Ông chỉ ra rằng tai nạn ở Nhật Bản cũng chứng tỏ rằng việc kéo dài tuổi thọ [các lò phản ứng] là vô trách nhiệm.
Renate Künast, người cùng với Trittin là lãnh đạo nhóm nghị sĩ của Đảng Xanh, bổ sung: “Các nhà máy điện hạt nhân không nên đặt tại những vùng đông dân cư, và phải chắc chắn không nằm trong vùng động đất. Điều này cũng áp dụng cho cả Đức nữa. Neckarwestheim chẳng hạn, không chịu được động đất.”
Volker Kauder, lãnh đạo đảng CDU và đảng anh em Bavarian của nó là Liên minh xã hội Thiên chúa giáo (CSU) - trong quốc hội ở Bundestag, đã nói rõ rằng hai đảng sẽ tiếp tục ủng hộ kéo dài tuổi thọ, bất chấp tai nạn ở Fukushima. Phó trưởng đoàn nghị sĩ của đảng Michael Fuchs đồng ý: “Nhật bản có kiến tạo địa chất hoàn toàn khác Đức. Tai nạn ở đó không gieo nghi ngờ lên việc kéo dài tuổi thọ của các nhà máy điện hạt nhân ở đây.”

Vấn đề then chốt ở Đức
Đây là một lý lẽ cũ nhưng liệu nó có thể được duy trì liên tục không thì còn phải xem. Cho đến nay, ngành công nghiệp này, CDU/CSUvà FDP đã khăng năng nói rằng các nhà máy điện hạt nhân của Đức an toàn và Đức có thể tin cậy ở các kỹ sư của mình. Nhưng cũng chính điều này đã luôn là đúng ở Nhật Bản. Các kỹ sư của nó có tiếng là giỏi ngang với kỹ sư Đức, khi nó chế tạo mọi thứ, từ ô tô đến nhà máy điện hạt nhân. Như vậy nếu Nhật Bản không thể tin tưởng vào việc xây dựng các lò phản ứng có thể hoạt động một cách an toàn, thì nói gì đến Đức?”
Ít có vấn đề nào khác có tác động mạnh đến lịch sử nước Đức sau chiến tranh như vấn đè điện hạt nhân. Và hiếm có nước nào khác phản ứng nhậy bén như thế với nguy cơ ô nhiễm hạt nhân. Đây là một trong những lý do mà Đức phải thành lập một đảng chống hạt nhân, Đảng Xanh, từ đó đã cắm rễ vững chắc vào hệ thống chính trị.
Đức cũng có địa lý chống đối với điện hạt nhân trong đó có các vị trí như Brokdorf, Kalkar, Wackersdorf và Gorleben, tên của chúng đã trở thành biểu tượng của cuộc tranh luận này. Xã hội công dân Đức đã phát động những trận đánh lớn chống lại vũ khí hạt nhân, bình thường bằng lời lẽ nhưng đôi khi bằng cả dùi cui, đá, súng phun nước và lựu đạn.
Chống đối thậm chí đã trở thành cách sống của một số người, giống như những nhà hoạt động đã lập nên “nước Cộng hòa Tự do Wendland” vắn số vào năm 1980 gần một bãi chôn chất thải ở Gorleben ở Bắc Đức. Phong trào này thậm chí đã đặt ra khẩu hiệu “schottern” nhắc đến hành động phá hoại chống việc vận chuyển chất thải hạt nhân.” 
Khởi động lại phong trào chống hạt nhân
Khi Đảng Xanh hình thành một chính phủ liên minh với đảng Xã hội Dân chủ (SPD) trung tả năm 1998, nó đã đặt việc loại bỏ từng phần hạt nhân thành ưu tiên cao nhất, với mục tiêu ngừng hoạt động tất cả các lò phản ứng vào năm 2021. Nhưng khi liên minh CDU/CSU/FDP lên nắm quyền năm 2009, nó bắt đầu bàn đến việc kéo dài tuổi thọ các nhà máy đó. Chính phủ sợ thiếu điện nghiêm trọng nếu các lò phản ứng bị ngừng, và gánh nặng chuyển sang các nguồn năng lượng tái sinh. Ngoài ra, các chính khách trong chính phủ mới lo sợ khả năng đảo ngược đạo luật bị ghét mà SPD/Đảng Xanh đã ban hành trước khi rời chức vụ.
Nhưng chính sự quay ngoắt này đã tạo ra sự ủng hộ mới cho phong trào chống hạt nhân. Khoảng 12.000 người đã tham gia vào chuỗi xích kết bằng người giữa Brunsbüttel và các nhà máy điện hạt nhân Krümmel gần Hamburg. Những mối lo cũ về sự thiếu kiểm soát nguồn năng lượng này đã nổi lên lại. 
Liên minh CDU/CSU bị chia rẽ trên chủ đề này. Một bộ phận lớn của nhóm nghị sĩ quốc hội do Volker Kauder ủng hộ việc kéo dài tuổi thọ thêm 15 năm hoặc hơn, trong khi Bộ trưởng Môi trường Röttgen muốn dừng ở 10. Hai phe thỏa thuận 12 năm. Chính phủ quyết định đẩy sang luật mà không dính đến Thượng viện (Bundesrat), bởi vì các đảng liên minh thiếu một đa số ở đó. (Bình thường Bundesrat phải thông qua bất kỳ luật nào tác động đến thẩm quyền của 16 bang nước Đức) Tòa Hiến pháp Liên bang Đức nay đang chờ để xét xem liệu quan điểm của chính phủ có phù hợp với hiến pháp Đức hay không. Cả quá trình này cũng mới được tiếp thêm sinh lực để đối phó với áp lực do thảm họa ở Nhật Bản gây ra.
Trong quá khứ, một đa số người Đức có thể được động viên nhanh chóng để chống năng lượng hạt nhân tại bất cứ nơi nào có lý do để làm thế. Fukushima là một lý do quan trọng, và nó sẽ tạo ra một ấn tượng sâu sắc lên cuộc tranh cãi của Đức. Các đảng ủng hộ hạt nhân, CDU, CSU và FDP sẽ phải đương đầu với những lý lẽ mới để biện hộ cho việc kéo dài tuổi thọ các lò phản ứng. Đảng Xanh có thể tăng thêm thanh thế, và SPD trước đây đã có lần ủng hộ điện hạt nhân nhưng sau đó đã quay ngược chính sách của mình, có thể sẽ tách ra khỏi cuộc tranh cãi mà nó thiếu khả năng thuyết phục.
Thủ tướng Merkel cũng thấy trong vấn đề này bản thân bà hơi thiếu tính quyết đoán mà bà đã có trong nhiều cuộc tranh luận khác. Là một nhà vật lý, bà có niềm tin tự nhiên vào khoa học hạt nhân, và do đó, vào công nghiệp hạt nhân. Nhưng là một chính khách bà biết rằng ủng hộ điện hạt nhân là một lập trường không được lòng dân ở Đức. Kết quả, bà sẽ giữ một lập trường khiêm tốn, và để một con mắt vào cuộc chống đối mạnh trong dân chúng, thận trọng mô tả điện hạt nhân như một “công nghệ bắc cầu” đến tương lai dựa trên năng lượng tái sinh, một công nghệ hiện tại được chấp nhận nhưng ít có ý nghĩa lâu dài. 

Đếm ngược thời gian đến một Thảm họa Hạt nhân
Khi động đất xảy ra, máy móc phản ứng nhanh hơn bất cứ con người nào. Các cảm biến seismic ở nhà máy điện hạt nhân Fukushima Daiichi ngày thứ Sáu đã dò ra những sóng chấn động phá hủy chỉ trong vài giây. Hai phút sau, vào 2:48 chiều theo giờ địa phương, hệ thống điều khiển lò phản ứng đã kích khởi quy trình tự động dừng nhanh của ba lò phản ứng lúc đó đang hoạt động.
Ban đầu mọi việc đều trôi chảy. Trong vài giây, các thanh kiểm soát được đưa vào giữa các thanh nhiên liệu, nhờ đó cắt đứt phản ứng hạt nhân dây chuyền. Đó chính là cách hoạt động đúng của hệ thống. Nhưng sau đó xảy ra một chuyện nghiêm trọng, khởi sự một quá trình đếm ngược đến một thảm họa hạt nhân.
Ngay cả sau khi dừng khẩn cấp, một lò phản ứng hạt nhân vẫn còn sản ra một lượng nhiệt rất lớn khi các chất phóng xạ được tạo ra trong quá trình phân rã hạt nhân tiếp diễn. Trừ khi các kỹ sư tiếp tục làm nguội lò phản ứng trong nhiều ngày sau khi nó ngừng hoạt động, sẽ xảy ra hiện tượng lõi lò phản ứng chảy tan, như trong trường hợp nhà máy hạt nhân Three Mile Island gần Harrisburg, bang Pennsylvania, và ở Chernobyl. 
Để phòng ngừa hiện tượng này xảy ra, các bơm nước tiếp tục bơm qua hệ thống làm mát ở Fukushima Nhưng sau đó lưới điện sụp, do kết quả của trận động đất. Các máy phát dự phòng lúc đó bắt đầu hoạt động.

“Giống như Lái một chiếc xe không có Động cơ”
Mỗi lò phản ứng có ba hay bốn máy phát điện diesel. Nhưng khi sóng thần đến, các máy phát điện trong hai lò phản ứng ở Fukushima bị hỏng. Toàn bộ khu vực nhà máy điện bị ngập lụt. 
Cuối cùng các kỹ sư đã cố gắng kết nối được bộ ắc quy dự phòng sự cố với hệ thống. Nhưng các ắc quy này chỉ được thiết kế để bắc cầu qua một khoảng thời gian vài phút, chẳng hạn, để có thể chuyển mạch cung cấp điện từ lưới điện sang một nguồn nội bộ. Những nguồn điện yếu này đã ngăn chặn thành công một thảm họa hạt nhân sát sạt vào tối thứ Sáu.
Đó là một hành động liều lĩnh, “giống như cố gắng lái một chiếc ô tô không có động cơ mà chỉ dùng ắc quy” Michael Sailer nói, (ông là Giám đốc điều hành của Viện Öko có cơ sở ở Freiburg và nhiều năm là chủ tịch Ủy ban An toàn Lò phản ứng hạt nhân của Đức). “Ắc quy hoàn toàn là một cố gắng một mất một còn,” Lothar Hahn, cựu giám đốc của Hội An toàn Lò phản ứng nói.
Trong khi các kỹ sư Nhật đang vật lộn chiến đấu để ngăn chặn thảm họa đang lù lù hiện đến, thì các chuyên gia an toàn lò phản ứng trên khắp thế giới đang ngồi trước máy tính và theo dõi tiến trình của phản ứng hạt nhân dây chuyền trong nỗi khiếp sợ. Họ gửi e-mail cho nhau, gọi điện thoại và thảo luận trong các diễn đàn chuyên môn kín. Hầu như không có thông báo chính thức, nhưng họ tất cả họ đều có liên lạc với các chuyên gia ở Nhật Bản. “Tình hình là vô cùng nghiêm trọng,” Hahn kết luận ngay khi biết rằng hệ thống làm mát đã hỏng. “Nếu điều này tiếp tục, trong trường hợp xấu nhất, chúng ta sẽ thấy một vụ lõi lò phản ứng chảy tan” (mà kết quả là phóng xạ), một nhân viên của cơ quan năng lượng hạt nhân Nhật Bản thú nhận tối thứ Sáu. 
Rõ ràng đây chính xác là điều đã xảy ra. Bởi vì các bơm làm mát không làm việc do mất điện, mức nước tụt xuống trong thùng phản ứng. Các thanh nhiên liệu theo báo cáo là chỉ còn ngập một nửa trong nước làm mát, nhô lên khỏi mặt nước đến một mét. Kết quả là, chúng bị phá hủy một phần và trở nên quá nhiệt, đúng như một bộ gia nhiệt ngâm nước có thể trở nên quá nhiệt khi bị lấy ra khỏi nước. 

Cuộc chiến đấu vô vọng
Trong sự tuyệt vọng, những người có thẩm quyền cho phép phóng có kiểm soát luồng hơi nước bị ô nhiễm phóng xạ ra môi trường. Mức phóng xạ bên trong nhà máy tăng lên 1000 lần giá trị bình thường, và phóng xạ trong cả khu vực nhà máy cũng tăng cao.
Các báo cáo cho biết áp suất trong thùng chứa lò phản ứng trong Tổ máy số 1 đã tăng lên sáu lần áp suất khí quyển, dường như báo trước thảm họa sắp xảy đến, bởi vì vỏ bảo vệ của lò phản ứng chỉ có thể chịu được một áp suất đến tám lần áp suất khí quyển.
Tình hình ở Fukushima đột ngột leo thang vào đêm thứ Sáu tuần trước. Chuyên gia hạt nhân Sailer so sánh tình hình này với “một bộ phim thảm họa” khi các kỹ sư chiến đấu tuyệt vọng giành lại được kiểm soát các lò phản ứng. Cuối cùng, nó rõ ràng là một cuộc chiến đấu vô vọng.
Các thanh nhiên liệu đã nóng chảy, ít ra là một phần và rõ ràng chỉ còn lại lớp vỏ thép của thùng chứa lò phản ứng và lớp cách ly, ngăn ngừa các chất phóng xạ mạnh nhất khỏi phóng thoát. Tôi thứ Bẩy theo giờ địa phương, những người vận hành nhà máy tuyên bố rằng họ có ý định đưa nước biển vào làm ngập các lò phản ứng, đó là cố gắng một mất một còn để ngăn các thùng phản ứng khỏi nóng chảy. “Về cơ bản họ đang cố gắng để nhấn chìm lò phản ứng” chuyên gia hạt nhân Mycle Schneider, người biên soạn “Báo cáo thường niên về tình hình công nghiệp hạt nhân thế giới”nói.

Tiếng vọng của Three Mile Island
Tai nạn Fukushima giống như những gì đã xảy ra ở nhà máy điện hạt nhân Three Mile Island gần Harrisburg, bang Pennsylvania năm 1979. Vào buổi sáng 28 tháng Ba năm 1979, một chiếc van bị kẹt và nhiều sai lầm trong vận hành dẫn đến thất thoát một lượng lớn chất lỏng khỏi hệ thống làm mát cho lò phản ứng thứ hai của nhà máy. 
Một trình dừng máy tự động khẩn cấp làm ngưng phản ứng dây chuyền trong lõi lò phản ứng, giống như trong trường hợp ở Nhật Bản tuần trước. Nhưng việc mất nước làm mát dẫn đến tăng nhiệt lượng thừa từ vật liệu của lõi, làm nóng chảy một số vật liệu. Các chất khí phóng xạ thoát ra môi trường, và các chuyên gia mất năm ngày để lấy lại kiểm soát lò phản ứng.
Sự cố Harrisburg là thảm họa lò phản ứng đầu tiên phát ra toàn thế giới những câu hỏi về độ an toàn của năng lượng hạt nhân. Nhưng chỉ sau thảm họa Chernobyl - sắp tới kỷ niệm lần thứ 25 của nó - nhiều nước mới quay lưng lại với loại công nghệ có tính mạo hiểm cao này.

Di sản chết người
Lõi hạt nhân của một trong những lò phản ứng của Chernobyl cũng chảy tan vào cái ngày định mệnh ấy, ngày 6 tháng Tư năm 1986. Thật trớ trêu, đúng vào lúc thanh tra an toàn thì những người vận hành mất kiểm soát lò phản ứng số bốn của nhà máy điện hạt nhân Chernobyl ở gần thành phố Pripyat thuộc Ukrain ngày nay.
Do kết quả của nhiều lỗi vận hành khác nhau, đầu ra của lõi lò phản ứng tăng lên khoảng 100 lần công suất định mức của nó. Lượng nhiệt cực lớn do nó sinh ra phá hủy các kênh dành cho các thanh kiểm soát lò phản ứng, xóa đi đúng cái cơ cấu quan trong nhất để đề phòng một vụ nổ hạt nhân. Một loạt phản ứng hóa học tai hại dẫn đến tích tụ một hỗn hợp các chất khí gây nổ bên dưới mái nhà của thùng áp suất lò phản ứng, khiến nó cuối cùng bùng cháy.
Khi mái bê tông 1000 tấn của thùng áp suất bị thổi bay lên không trung, lõi lò phản ứng bắt lửa. một lượng lớn chất phóng xạ, như iodine 131 và cesium 137, được phóng thoát ra không khí và tản ra trên một bộ phận lớn khắp lãnh thổ phía tây Liên Xô và Tây Âu.
Bụi phóng xạ rơi xuống khoảng 200.000 ki lô mét vuông đất. Vì chính phủ Liên Xô không muốn thừa nhận thảm họa trong nhiều ngày, một khoảng thời gian quý báu mất đi cho những nhiệm vụ như sơ tán thành phố Pripyat gần kề. nhiều công nhân vệ sinh, được biết dưới cái tên “những người thanh toán” bị phơi ra trước phóng xạ liều lượng cao trong mấy ngày đầu tiên. Tỷ lệ mắc ung thư tuyến giáp tăng vọt trong vùng xung quanh nhà máy trong nhiều năm. Vỏ bê tông cách ly được vội vã xây lên quanh lò phản ứng bắt đầu nứt rạn và vỡ vụn.

“Di tích lịch sử”
Tai nạn lò phản ứng ở Ukraine là do sai lầm của con người. Fukishima bây giờ có thể coi như một cảnh báo rằng các lò phản ứng hạt nhân không thể được bảo vệ một cách tuyệt đối chắc chắn chống lại những lực lượng thiên nhiên, đặc biệt đối với những nhà máy già nua như Fukushima.
Lò phản ứng hạt nhân Nhật Bản là một “di tích lịch sử,” Shaun Burnie, một chuyên gia hạt nhân Anh làm việc cho Greenpeace, người rất thông thạo các lò phản ứng trên ờ biển miền đông Nhật Bản nói.
Burnie đã đến thăm các lò phản ứng Fukushima nhiều lần và đã thường xuyên đến làm việc ở Nhật Bản. Các lò phản ứng số 1 và 2 tại Fukushima Daiichi được đưa vào hoạt động vào đầu những năm 1970, khi các tiêu chuẩn an toàn lỏng lẻo hơn nhiều so với ngày nay. Chúng được chế tạo khi Volkswagen đang chế tạo Beetle của nó không có đai an toàn, túi không khí và đệm đầu. Lò phản ứng nổ hôm thứ Bẩy thật ra đã có kế hoạch cho ngừng nay mai.
Vì việc xây dựng mới các nhà máy điện hạt nhân đắt tiền và khó bảo vệ về phương diện chính trị, lợi ích về năng lượng tại nhiều nước đang thuyết phục các chính phủ thông qua việc kéo dài thời hạn sử dụng nhiều hơn so với thời hạn theo kế hoạch đối với các lò phản ứng Đức. Tuy nhiên, sự tái sinh các nhà máy điện già nua này ngày nay đang tỏ ra là một trò chơi nguy hiểm.

Cơ hội nâng cấp bị hạn chế
Những người vận hành nhà máy đang cố gắng duy trì hoạt động của các lò phản ứng của họ vượt quá thời hạn sử dụng thiết kế ban đầu là 40 năm. Hoa Kỳ đã gia hạn giấy phép cho các nhà máy hạt nhân thêm 20 năm, các nước châu Âu đang làm theo. Nhưng công ngệ an toàn trong các nhà máy cũ hơn chỉ có thể nâng cấp trong một phạm vi hạn chế.
Mười một lò phản ứng ở Nhật bản đã phải ngừng hoạt động trong ngày động đất. Năm lò ở trong tình trạng khẩn cấp vì không thể làm mát thích hợp. “Đây là một sự kiện đáng buồn. Công nghiệp hạt nhân quốc tế đã cố gắng để trì hoãn sự kết liễu của nó bằng cách kéo dài thời hạn sử dụng,” chuyên gia hạt nhân Mycle Schneider nói. “Các hệ thống cổ lỗ ở Fukushima nay đã minh họa cho những hậu quả đó. Nền công nghiệp [hạt nhân] sẽ không sống sót qua sự kiện này.” 
Burnie cũng có quan điểm tương tự. “Trong một nghìn năm nữa bạn cũng không thể có giấy phép cho Fukushima hôm nay,” ông nói. Trong các lò phản ứng nước sôi thế hệ hai vẫn còn đang được sử dụng trong nhà máy này, các thanh nhiên liệu nổi trực tiếp trong thùng phản ứng. Đức cũng có những nhà máy hạt nhân cùng loại, bao gồm nhà máy Brunsbüttel ở bang miền bắc Schleswig-Holstein. Trước hết, Burnie nói, độ an toàn trong động đất chỉ có thể cải thiện đến một mức độ nhất định. “Nền móng gồm hàng nghìn tấn bê tông. Đó là cái không thể nâng cấp.”

Việc Tái sinh Điện Hạt nhân Toàn cầu đang bị Đe dọa
Các lò phản ứng ở Fukushima Daiichi được đặt sát bờ biển, cách thành phố Sendai khoảng 50 km, đã bị tàn phá trong trận động đất. Hầu như tất cả 55 nhà máy điện hạt nhân của Nhật Bản đều được xây dựng gần biển, bởi vì chúng cần một nguồn lớn nước làm mát chắc chắn để hoạt động. Nhưng chính điều đó lại khiến cho chúng rất dễ bị phá hủy trong những cơn sóng thần.
Sau khi cơn sóng thần khổng lồ của Ấn Độ Dương tấn công Đông Nam Á năm 2004, các nhà điều phối hạt nhân và những người vận hành nhà máy nhận ra nguy cơ đối với các nhà máy điện hạt nhân. Cơn sóng thần đó làm ngập các bơm làm mát cho một lò phản ứng ở Nhà máy Điện Nguyên tử Madras ở Ấn Độ, nhưng những người vận hành đã dừng được lò phản ứng vừa kịp đúng lúc để ngăn ngừa một tai nạn. Cơn sóng đó cũng tràn ngập một vị trí xây dựng gần kề với một lò phản ứng tái sinh, nơi người Ấn Độ cũng có ý định sản xuất vật liệu nổ plutonium. Nhưng rõ ràng là những người vận hành Ấn Độ chưa học được nhiều từ cơn sóng thần 2004. Sau khi khu vực đó được xả, họ lại tiếp tục xây một lò phản ứng vẫn ở vị trí đó.
Trong một ý đồ tích cực hơn, Cơ quan Nguyên tử Năng Quốc tế (IAEA) cách đây hai năm đã thiết lập Trung tâm Ân toàn Seismic Quốc tế. Trung tâm này tạo một diễn đàn cho các chuyên gia trao đổi thông tin và đề ra những tiêu chuẩn cao nhất có thể có. Nhật Bản được coi là một trong những nước thành viên tích cực nhất, và như vậy là có lý do. Đây không phải là lần đầu tiên động đất đã đe dọa sự an toàn của các nhà máy điện hạt nhân của Nhật. Năm 2007 chẳng hạn, một trận động đất mạnh 6,8 độ Richte đã làm rung chuyển bờ biển phía tây Nhật Bản. Tâm động đất chỉ cách Kashiwazaki-Kariwa, một tổ hợp 7 lò phản ứng, 16 km và là nhà máy điện hạt nhân lớn nhất thế giới. Sau đó đã phát hiện ra rằng một trong những thanh điều khiển đã bị kẹt.

Lớn hơn dự kiến
Trận động đất năm 2007 cũng mạnh hơn nhiều so với các kỹ sư dự tính. Thật ra, nó mạnh hơn hai lần rưỡi so với một trận động đất mà lò phản ứng này theo thiết kế có thể chịu được. Ngày nay nó được đưa trở lại hoạt động sau khi đã được nâng cấp. Cùng một cơ quan vận hành, Công ty Điện lực Tokyo (TEPCO) sở hữu cả hai nhà máy, Fukushima và Kashiwazaki-Kariwa.
Nhiều chuyên gia hạt nhân cảnh giác với TEPCO, một phần vì lịch sử của nó. Cách đây 10 năm một xì căng đan làm rung chuyển tín nhiệm của công chúng đối với công ty này, khi TOPCO bị phát giác đã xoay sở giả mạo các báo cáo về cuộc thử nghiệm rò rỉ được thực hiện trong các đợt thanh tra an toàn trong các nhà máy điện hạt nhân của họ.
Do các xìcăngđan của TEPCO, các công dân Nhật Bản ngày càng mất tin tưởng vào chính phủ của họ và công nghệ hạt nhân. Nhật Bản đã phát ra khoảng một phần ba điện năng từ điện hạt nhân và phụ thuộc vào các lò phản ứng ngang với Pháp.
Sau trận động đất năm 2007, những người vận hành một nhà máy tái chế nhiên liệu ở Rokkasho-Mura được yêu cầu nâng cấp tổ hợp, lúc đó đang tiến hành chạy thử. Việc nâng cấp đòi hỏi phải tăng gần gấp đôi chi phí cho dự án, dẫn đến một tổng chi phí lên đến hơn 20 tỷ $ - cho thấy để đảm bảo an toàn chống động đất tốn kém như thế nào.
Sau trận sóng thần tuần qua, cũng có mất điện ở các cơ sở hạt nhân Rokkasho, và nhiều giờ sau động đất an toàn của nhà máy rõ ràng phụ thuộc hoàn toàn vào hoạt động của các động cơ diesel.

Giành được ưu thế
Liệu tai nạn ở Fukushima có tác động đến việc bùng nổ xây dựng các nhà máy điện hạt nhân ở châu Á hay không vẫn còn phải chờ xem. Điện hạt nhân hiện nay đang trải qua một đợt hồi sinh trên toàn thế giới, là điều không tưởng tượng nổi trong những năm liền sau Chernobyl.
Những nền kinh tế đang lớn nhanh ở châu Á, Trung Hoa, Nam Triều và Ấn Độ, cũng như Nga và Hoa Kỳ, một lần nữa lại đang trông cậy từ điện hạt nhân. Sự hồi sinh này là kết quả của cả tình trạng đói năng lượng trầm trọng trong những nền kinh tế mới nổi và cuộc tranh cãi về ô nhiễm khí cácbônic đang là một lo ngại toàn cầu.
Theo IAEA, 29 nước hiện nay đang vận hành 442 lò phản ứng, tạo ra một tổng công suất 375 gigawatt điện. 65 nhà máy khác hiện đang được xây dựng trên khắp thế giới. Bây giờ khi nhiều người tin rằng biến đổi khí hậu đã thế chân thảm họa hạt nhân trong vai trò đe dọa lớn nhất đối với loài người, công nghệ hạt nhân, với lượng khí thải CO2 thấp, một lần nữa lại giành được ưu thế.
Chẳng hạn Thụy Điển từ lâu đã được coi như một tấm gương về cách thức từ bỏ từng bước năng lượng hạt nhân. Tuy nhiên, vào giữa năm ngoái, quốc hội Thụy Điển đã đảo ngược quyết định giã từ năng lượng hạt nhân từ 30 năm trước. Luật mới có thể cho phép xây dựng đến 10 nhà máy mới, thay thế các nhà máy Forsmark, Ringhals và Oskarshamn đã cũ. 
Ở Hoa Kỳ, trong ba thập niên không có dự án xây mới lò phản ứng nào được xúc tiến. Năm ngoái, Tổng thống Barack Obama quyết định dành hàng tỷ đô la trong quỹ bảo đảm cho vay của liên bang cho hai tổ hợp ở Georgia. Một dự án ở Nam Carolina đang được tiến hành xây dựng. 
Trung Hoa có 27 địa điểm xây dựng hạt nhân, trong khi Nga hiện đang xây dựng 11 lò phản ứng mới. Moscow thậm chí có kế hoạch xây dựng những lò phản ứng nổi, nhỏ để cung cấp điện ở vùng Bắc Cực nước Nga.

Kết thúc giấc mơ năng lượng rẻ
Tuy nhiên, trước hết, ngày càng nhiều nền kinh tế mới nổi, và ngay cả các nước đang phát triển quan tâm đến công nghệ hạt nhân. “”Chúng tôi dự tính có từ 10 đến 25 nước mới đưa nhà máy điện hạt nhân đầu tiên của họ vào hoạt động vào năm 2030,” Tổng Giám đốc IAEA Yukiya Amano nói. Theo ông Amano, tổng số 65 nước, trong đó riêng ở châu Phi có 21 nước, đã tỏ ra quan tâm đến công nghệ này.
“Dự báo hiện thời cho biết thế giới sẽ tăng tiêu thụ năng lượng toàn cầu lên hơn 50 phần trăm vào năm 2030,” một cuốn sách nhỏ của IAEA có tựa đề “Xem xét Phát động một Chương trình Điện Hạt nhân mới” viết. Theo cuốn sách này, các nhà máy điện hạt nhân có thể giúp đảm bảo “tiếp cận năng lượng có thể với tới được ở nhiều nơi trên thế giới”
Tình hình hiện nay cho thấy rằng những hy vọng của những người vận động cho hạt nhân sẽ bị va chạm mạnh. Sự kiện một thảm họa hạt nhân có thể xảy ra trên đất của những robot và những ô tô điện đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử nền công nghệ này.
Có những hoán dụ cho tất cả những tai nạn của thời đại hạt nhân, đặt những cái tên đã trở thành biểu tượng. Three Mile Island là một trong số đó, và tất nhiên, Chernobyl.
Đương nhiên cái tên Fukushima sẽ có một ý nghĩa tương tự. Fukushima sẽ tượng trưng cho sự kết thúc giấc mơ năng lượng hạt nhân trong tầm tay -- và nhận thức rằng chúng ta không có dạng năng lượng ấy được kiểm soát.

RALF BESTE, PHILIP BETHGE, KLAUS BRINKBÄUMER, DIRK KURBJUWEIT, CORDULA MEYER, RENÉ PFISTER, OLAF STAMPF, THILO THIELKE, WIELAND WAGNER 
Christopher Sultan dịch từ tiếng Đức
Bản tiếng Việt: Hiếu Tân, 2011



Thảm họa ở Nhật Bản làm rung động nền kinh tế toàn cầu 

Peter Müller và Alexander Neubacher
SPIEGEL, 03/22/2011
http://www.spiegel.de/international/business/0,1518,752325,00.html


Ảnh AP
Thảm họa thiên tai ở Nhật Bản cho ta thấy rõ nền kinh tế thế giới mỏng manh dễ vỡ như thế nào. Các nhà máy trên khắp thế giới đã phải sản xuất chậm lại vì thiếu phụ tùng. Nhưng các vấn đề đó có thể khắc phục được, miễn là thảm họa hạt nhân ở Fukushima không trở nên tồi tệ hơn.
Tokyo cách Mulfingen và Künzelsau (Đức) khoảng 9000 km, nhưng những làn sóng chấn động từ Nhật Bản không mất nhiều thời gian để đến hai thành phố thuộc bang Baden-Württemberg miền tây nam nước Đức này. Địa phương này là đất của nhiều công ty cỡ nhỏ và cỡ trung, bao gồm EBM Papst và Ziehl-Abegg, hai nhà sản xuất quạt và hệ thống thông gió chuyên dụng hàng đầu thế giới. 
Bình thường thì hai công ty này là đối thủ cạnh tranh. Tuy nhiên bây giờ chúng cùng chung số phận. Một trong những nhà cung cấp chủ yếu của chúng, một nhà máy sản xuất con chip máy tính vận hành bởi công ty điện tử khổng lồ Toshiba ở miền bắc nước Nhật, đã dừng hoạt động. Mặc dầu rất khó có được những thông tin chi tiết về các điều kiện địa phương, mọi điều mà các nhà điều hành Đức nghe được khiến ta nghĩ rằng trận động đất và sóng thần đã tàn phá nhà máy sản xuất chip.
“Nếu việc cung cấp bị chậm trể, nó có thể làm ngừng toàn bộ quá trình sản xuất,” Peter Fenkl, chủ tịch Ziehl-Abegg nói.
“Chúng tôi chờ đợi các dây chuyền lắp ráp ngưng trong một hoặc hai tuần,” Hans-Jochen Beilke, chủ tịch công ty kinh doanh ở EBM Papst nói.
Mặc dầu quy mô của thảm họa ở Nhật vẫn còn chưa rõ, có lẽ không sai khi nói rằng những thiệt hại về kinh tế là đáng kể. Nhật bản, nền kinh tế lớn thứ ba thế giới, xuất khẩu sản phẩm của nó đến mọi nơi trên thế giới. Các công ty của Nhật Bản cung cấp cho thị trường thế giới những con chíp bộ nhớ hiện đại, TV màn hình phẳng, máy ảnh và ô tô. Ngân hàng Pháp Crédit Lyonnais ước tính rằng một phần năm sản phẩm công nghệ cao trên toàn thế giới đến từ Nhật Bản. 
Trận động đất và sóng thần tàn phá cách đây 12 ngày - gây mất điện trên diện rộng - đã làm sản xuất sút giảm nghiêm trọng. Sự thể có thể còn tồi tệ hơn nữa nếu những cố gắng ngăn ngừa một thảm họa lớn tại các lò phản ứng hạt nhân ở Fukushima thất bại. 

“Mùa đông Hạt nhân của Kinh tế”
Những kẻ tích trữ tiền đang kích cho nhu cầu đồng yên tăng vọt vì họ trông chờ những cố gắng tái thiết sẽ tiêu tốn hàng nhiều tỷ. Các nhà đầu tư lo lắng đã làm cho giá cổ phiếu ở New York, Frankfurt và Tokyo tăng lên chóng mặt. Một số chuyên gia kinh tế sợ một cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu, “một mùa đông hạt nhân đối với nền kinh tế” như một người buôn chứng khoán ở Frankfurt đã nói tuần qua.
Nhật Bản đã từng dạy thế giới một nhà máy hiện đại hoạt động như thế nào. Tuy nhiên, bây giờ chính thảm họa ở Nhật Bản đã đưa dây chuyền cung cấp toàn cầu vào tình trạng ngưng trệ. Bộ chuyển đổi Porsche lắp vào Cayenne SUV của nó được chế tạo bởi nhà sản xuất Nhật Bản Aisin, tại đây sản xuất đã bị trở ngại. Một nhà máy Toshiba chế tạo một con chip bộ nhớ quan trọng sử dụng trong iPad Apple bị hư hỏng. Nhà chế tạo ô tô Opel đã loan báo kế hoạch trong tuần này bỏ một số ca trong nhà máy của nó ở Eisenach, Đức, vì thiếu các bộ phận từ Nhật Bản.
Vận tải đường biển cũng đã sút giảm. Các tàu chở container của hãng Hapag-Lloyd đã không thể vào bến ở cảng Sendai đã bị phá hủy. Lufthansa Cargo không còn cung cấp dịch vụ thường xuyên đến Tokyo được nữa, vì sợ phóng xạ. Trong một thế giới mà các nhà máy không còn dự trữ lớn, thì cung cấp liên tục là bắt buộc. Nếu loại cung cấp ấy bị gián đoạn, thì thường chúng chỉ có thể kéo dài sản xuất thêm ít ngày nữa.
Dây chuyền lắp ráp ở EBM Papst và Ziehl-Abegg bây giờ phụ thuộc vào một nhúm linh kiện điện tử từ Nhật Bản, thường chi phí lớn hơn vài cent. Nhưng linh kiện ấy - những biến thế, trở kháng và chíp bộ nhớ - là những bộ phận quan trọng nhất trong các sản phẩm từ những chiếc quạt cho laptop và động cơ ô tô đến các hệ thống điều hòa nhiệt độ không khí trong những ngôi nhà chọc trời ở New York và các khách sạn ở Mecca. 

Mối đe dọa ngấm ngầm
“Sẽ có sự suy giảm” Fenkl, chủ tịch Ziehl-Abegg chủ tịch nói. Sổ đặt hàng của ông đã đầy nhưng kho hàng của ông thì, thật không may, trống rỗng. Và thậm chí dù ông có kiếm được những phụ tùng mới đủ nhanh chóng, thì nguy cơ đối với nền kinh tế vẫn còn. “Cho dù chúng tôi có gửi quạt của chúng tôi cho nhà chế tạo ô tô kịp thời, nhưng nếu nhà cung cấp bơm không làm được thế vì ông ấy thiếu phụ tùng từ Nhật, thì có gì là tốt?” Fenkl hỏi.
Mối nguy cơ tiềm tàng đối với các công ty Đức còn tương đối nhỏ so với những vấn đề mà các nền kinh tế Châu Á và Bắc Mỹ đang phải đối phó. Khối lượng hàng hóa trao đổi giữa Nhật và Đức khoảng 35 tỉ € - một phần nhỏ so với hàng hóa trao đổi giữa Nhật và Trung Quốc.
Các chuyên gia ước tính rằng để dọn dẹp và xây dựng lại những phần đất nước bị tàn phá nhiều nhất cần tốn đến khoảng 200 tỉ $ một năm (142 tỉ €). Tốn kém là chắc chắn rồi, nhưng còn có thể. Để xây dựng lại Kobe sau cuộc động đất tàn phá năm 1995 tốn mất 100 tỉ $ - nhưng cố gắng đó tỏ ra là một kích thích kinh tế giả hiệu đối với nền kinh tế Nhật Bản.
Nếu tình hình trở nên tồi tệ đến mức nghiêm trọng trong các lo phản ứng bị phá hủy ở Fukushima, thì tương lai sẽ còn thảm đạm hơn. Những khu vực quan trọng trong vùng Fukushima sẽ trở thành vĩnh viễn hoang vu không có người ở. Chấn động đối với nền kinh tế toàn cầu chắc chắn sẽ rất lớn.

Trường hợp xấu nhất
“Tình hình có thể so sánh với Đức sau Thế Chiến II,” Klaus-Jürgen Gern của Viện Kinh tế Thế giới Kiel. Michael Heise, nhà kinh tế trưởng ở Allianz Insurance, tiên đoán: “Nó sẽ rung động các thị trường tài chính và có thể khiến cho quá trình hồi phục kinh tế toàn cầu ngừng trệ”
Bank Sarasin, một nhân hàng tư nhân Thụy Sĩ, tính rằng trong trường hợp xấu nhất, Nhật Bản có thể mất vĩnh viễn 10 phần trăm sức mạnh kinh tế của nó nếu những miền rộng lớn của đất nước bị ô nhiễm phóng xạ. Điều này sẽ làm sụt tăng trưởng của toàn thế giới khoảng một phần trăm.
Các thị trường chứng khoán và ngoại tệ phản ánh mức độ không chắc chắn của tình hình. Chỉ số điểm chuẩn của Sở Giao dịch Chứng khoán Tokyo ban đầu mất 15 phần trăm vào tuần trước, trước khi đi vào một thời kỳ dao động lên xuống thất thường. Vào thời gian các thj trường đóng cửa Thứ Sáu tuần trước, nhiều công ty đã chịu thua lỗ từ những ngày đầu tuần -- và tuần này tiếp tục hồi phục.
Những người hy vọng rằng đồng yên Nhật chịu áp lực trong một thời gian cần thiết đã thất vọng. Trong thực tế, điều ngược lại đã xảy ra, vì đồng yên ngày càng đắt giá hơn.
Thứ Năm tuần trước, một đô la Mỹ ăn 76 yên, tỉ giá thấp nhất kể từ cuối Thế Chiến II. Vào thời điểm đó, các bộ trưởng tài chính và các chủ tịch ngân hàng trung ương của những nước công nghiệp then chốt đã chán ngán. Trong một hành động hiệp đồng, họ bơm đồng yên vào thị trường, cố gắng ngăn chặn sự nâng giá đồng tiền này, dù chỉ là tạm thời.
Các công ty Nhật dựa vào xuất khẩu thở phào nhẹ nhõm trước chuyển động này. Trong cuộc khủng hoảng lần này, điều sống còn là họ có khả năng bán sản phẩm của họ với giá phải chăng trên thị trường thế giới.
Đấy là nói, nếu như họ còn có thể sản xuất ra được một loại hàng hóa nào.


Christopher Sultan dịch từ tiếng Đức
Bản tiếng Việt: Hiếu Tân, 2011


Rủi ro hạt nhân


Elizabeth Kolbert 
NEWYORKER 28/3/ 2011 
http://www.newyorker.com/talk/comment/2011/03/28/110328taco_talk_kolbert


Kỷ nguyên năng lượng nguyên tử có thể nói đã bắt đầu bằng cái vẫy của một chiếc đũa thần. Ngày 6 tháng Chín năm 1954, Tổng thống Dwight D. Eisenhower, lúc đó đang đi nghỉ ở Denver đã khuơ một chiếc que có đầu sáng loáng trên một tủ đầy những thiết bị điện tử. Chiếc đũa thần nơtron ấy phát một tín hiệu đến một chiếc máy xúc không người lái ở cách đó một ngàn hai trăm dặm, tận Shippingport, Pennsylvania. Chiếc gầu xúc lúc lắc tiến lên và xúc lên một gầu 3 tấn đất cát, khởi công nhà máy điện hạt nhân thương phẩm đầu tiên của đất nước. “Các bạn, thông qua những phương tiện như thế này, và thông qua những kiến thức mà chắc chắn chúng ta thâu lượm được từ nhà máy mới bắt đầu hôm nay, tôi tin rằng nguyên tử sẽ không dành riêng để hủy diệt con người, mà sẽ là một tên đầy tớ mạnh khỏe của con người và là một nhà hảo tâm không mệt mỏi,” Tổng thống nói. 
Chính quyền Eisenhower sau đó đã làm mọi việc nó có thể làm được để xúc tiến năng lượng hạt nhân. Năm 1955, Tổng thống đi xa đến mức đề nghị Hoa Kỳ đóng một con tàu chạy bằng năng lượng hạt nhân để đi quanh thế giới và hoạt động như một chiến dịch quảng bá nổi. (Con tàu này đã được chế tạo nhưng sau đó tám năm đã bị xếp xó vì chi phí vận hành quá cao.) Ngay cả như thế, thì những rủi ro của năng lượng hạt nhân thương phẩm cũng không thể hoàn toàn bị bỏ qua. Các công ty tư nhân muốn bảo đảm các nhà máy chỉ đến sáu lăm triệu đô la, dự tính chỉ bằng một phần mười phí tổn do một sự cố lớn gây ra, tính theo thời giá 1956, và các công ty thiết thực không quan tâm đến việc xây dựng nhà máy nếu không được tài trợ. Quốc hội vào cuộc và - lần này, một cách ẩn dụ - đã vẫy một cây đũa thần khác. Đạo luật Price-Anderson, thông qua năm 1957, trên thực tế đã tạo ra một quỹ bảo hiểm của chính phủ cho ngành công nghiệp này. 
Trong nửa thế kỷ kể từ ngày ấy, những hiểm họa của điện hạt nhân đã luân phiên làm người Mỹ lúc thì lo lắng, lúc thì lơ là. Lo ngại vọt lên sau sự cố lõi nhà máy hạt nhân tan chảy một phần ở Three Mile Island, ngoại ô Harrisburg, Pennsylvania, năm 1979, và một lần nữa sau thảm họa ở Chernobyl năm 1986. Rồi nó giảm đi, trở lại một lần sau 9/11, và lại giảm đi lần nữa, đến mức mà nhiều người trong ngành công nghiệp này bắt đầu nói đến một cuộc “phục hưng hạt nhân.” Chỉ mới tháng trước, Tổng thống Barack Obama, người biện hộ cho “việc xây dựng một thế hệ mới các nhà máy điện hạt nhân an toàn và sạch,” đã kêu gọi ba mươi sáu tỉ đô la trong quỹ bảo đảm cho vay của liên bang. Bây giờ nghe chừng cuộc phục hưng này sẽ phải hoãn lại.
Thảm họa hạt nhân đang tiếp diễn ở nhà máy điện Fukushima Daiichi khác với các cuộc khủng hoảng trước ở chỗ nó bắt đầu bằng một thảm họa thiên nhiên, hay đúng hơn, hai. Nhà máy này được thiết kế để chịu được động đất mạnh và cũng chống được sóng thần. Nhưng hình như nó không được thiết kế để đối phó với một trận động đất kết hợp với một cơn sóng thần, mặc dầu động đất thường gây ra sóng thần. Điều mà nhiều người mô tả như cú đấm “hai trong một” khiến nhà máy này mất điện hoàn toàn (từ điện lưới) và cũng đánh sập cung cấp điện dự phòng của nó (một tổ máy phát điện diesel), một tình trạng được gọi là “blackout.” Nhà máy có sáu lò phản ứng, ba lò đang chạy lúc xảy ra động đất, ba lò kia đang ngừng. Các lò phản ứng đang hoạt động - số 1, 2 và 3 được dừng tự động, nhưng một lõi lò phản ứng, ngay cả sau khi dừng, đã phát ra một lượng nhiệt cực lớn, và phải được làm nguội liên tục. Khi hệ thống làm nguội của cả ba lò phản ứng đều hỏng, một loạt sự cố leo thang sinh ra: nổ, và có vẻ như các lõi lò phản ứng đã tan chảy một phần. Với mức phóng xạ tăn vọt, công nhân không thể hoàn thành các nhiệm vụ thiết yếu. Vào lúc viết bài này, tại một - hay nhiều hơn - lò phản ứng, vẫn có nguy cơ lõi lò chảy tan hoàn toàn. Các quan chức Nhật Bản dường như đặc biệt cảnh giác về tình trạng ở lò số 3, lò này dùng một dạng nhiên liệu, gọi là MOX, có chứa plutonium.
Trong khi đó, khi các lõi ở lò số 1, 2 và 3 bắt đầu quá nhiệt, thì vấn đề nổi lên ở các lò số 3, 4, 5 và 6 tuy khác nhau, nhưng không kém tiềm tàng khả năng thảm họa trong những bể xây nổi trên mặt đất, nơi chứa các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng. Nhiên liệu đã qua sử dụng cũng đòi hỏi làm nguội, và rõ ràng trong lò số 4 nước làm nguội đã sôi để lộ các thanh ra, và, theo một số báo cáo, chúng đã cháy ngay tức khắc. Một bể chứa các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng có thể chứa một tập hợp các thanh nhiên liệu nhiều hơn nhiều so với lõi lò phản ứng - và như vậy có nhiều chất phóng xạ hơn nhiều. Và trong khi lõi lò phản ứng được ngăn cách bằng một lớp thép bê tông dày, một bể thanh nhiên liệu đã qua sử dụng nói chung là không được bảo vệ. Những lo lắng về tình hình ở lò số 4 khiến các quan chức Mỹ phải khuyên người Mỹ hãy ra xa nhà máy này ít nhất năm mươi dặm.
Mỗ lần xảy ra một tai nạn, những người đề xuất điện hạt nhân lại chỉ ra rằng các rủi ro cũng gắn với cả các dạng năng lượng khác nữa. Các mỏ than thì có những tai nạn hầm lò, và khói bụi ô nhiễm từ đốt than dẫn đến hàng chục ngàn người nước này chết trước tuổi mỗi năm. Các giàn khoan dầu nổ, đôi khi rất kinh khủng, và thỉnh thoảng các đường ống dẫn khí đốt cũng thế. Hơn nữa, đốt cháy bất kì loại nhiên liệu hóa thạch nào đều tạo ra khí thải cácboníc, làm tăng biến đổi khí hậu toàn cầu, làm thay đổi cả trạng thái hóa học của các đại dương. Trong số những người tranh cãi nồng nhiệt cho điện hạt nhân lúc này, có một số nhà bảo vệ môi trường, họ thấy những mối nguy cơ chưa rõ ràng là tốt hơn những cái hại chắc chắn của biến đổi khí hậu. Thật ra một so sánh khách quan có thể gợi ý rằng một nhà máy điện hạt nhân được thiết kế tốt và điều khiển chặt chẽ có ít nguy cơ hơn, chẳng hạn, một nhà máy điện đốt than có kích cỡ tương đương. Tuy nhiên, một so sánh như vậy bỏ qua sự kiện là việc điều khiển năng lượng hạt nhân ở Mỹ vẫn còn phụ thuộc nhiều vào việc vẫy chiếc đũa thần.
Xem xét viễn tượng một cuộc tấn cộng khủng bố. Sau 11/9, dường chư chỉ có sự cẩn trọng về các nhà máy điện hạt nhân là được chuẩn bị để đối phó với một cuộc tấn công của một nhóm lớn được vũ trang tốt. Nhưng Ủy ban Điều phối Hạt nhân, trong khi xem xét lại các quy tắc an ninh của nó, quyết định không yêu cầu các nhà máy phải có khả năng tự phòng thủ chống lại các nhóm mang loại vũ khí nguy hiểm nhất, mặc dầu đó chính là loại vũ khí mà các thành viên của Ủy ban này đã kết luận rằng các nhóm khủng bố có thể trông đợi có được. (chính xác loại vũ khí nào là thông tin được phân cấp tuyệt mật.) Theo một nghiên cứu của Văn phòng về trách nhiệm giải trình của chính phủ Ủy ban này có lẽ đã duyệt lại các quy tắc của nó trên cơ sở “những gì ngành công nghiệp này coi là hợp lý và khả thi để phòng thủ chống lại nguy cơ khủng bố, hơn là dựa trên một đánh giá về bản thân nguy cơ đó.”
Hay là xem xét đòi hỏi, đề ra trong việc đối phó với tai nạn ở Three Mila Island, các kế hoạch sơ tán người được vạch ra cho một khu vực bao quanh tất cả các nhà máy hạt nhân. Như bất kể ai chạy xe qua Quận Westchester đều biết, ý tưởng rằng khu vực xung quanh nhà máy Indian Point, ở Buchanan, New York, có thể được sơ tán an toàn sau một tai nạn là, nói giảm nhẹ, có vẻ không hợp lý. (Hơn ba trăm nghìn người sống trong vòng mười dặm kể từ nhà máy, và gần hai mươi triệu sống trong vòng năm mươi dặm.) Tuy nhiên Ủy ban Điều phối tin rằng Indian Point có một kế hoạch sơ tán khả thi, và đang nghĩ cách xin gia hạn giấy phép nhà máy này thêm hai mươi năm.
Hay là, cuối cùng, xem xét các vấn đề về nhiên liệu đã qua sử dụng. Sau nhiều thập kỷ và nhiều công trình nghiên cứu tốn hàng tỉ đô la, Mỹ vẫn không có một kế hoạch để phát triển dài hạn phương tiện lưu giữ phế thải phóng xạ, phần lớn vẫn còn nguy hiểm trong nhiều thiên niên kỷ. (Chính quyền Obama bác bỏ ý tưởng về tạo ra một chỗ chứa ở Yucca Mountain, Nevada, tuy nhiên đã phải đẩy tới, hoặc, dường như thật sự xem xet một phương án thay thế). Ngược lại, các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng hiện đang được cất giữ ở tại một trăm lẻ bốn nhà máy điện hạt nhân của đất nước. Hơn hai chục lò phản ứng ở Mỹ có những bể ngâm trên mặt đất tương tự như những bể đã bị hư hỏng ỏ Fukushima - chỉ khác là các bể của Mỹ chứa nhiều chất thải hơn các bể của Nhật. Trong một cuộc hội nghị ngày hôm kia, David Lochbaun, một kỹ sư hạt nhân và là giám đốc Dự án An toàn Hạt nhân của Liên đoàn các nhà khoa học đã gọi những nguy cơ rủi ro hiện đang đặt ra bởi các bể chứa các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng ở Mỹ là “cao ngang với khả năng bạn tạo ra chúng.”
Như thảm họa ở Nhật Bản đã minh họa, rõ ràng và bi thảm, người ta đã chật vật lập kế hoạch cho những sự kiện mà người ta không muốn tưởng tượng xảy ra. Nhưng chúng đúng là những sự kiện phải được tính đến trong việc đánh giá thực tế về rủi ro. Chúng ta đang ít nhiều giả vờ rằng những nhà máy hạt nhân của chúng ta là an toàn, và cho đến lúc này chúng ta đã thoát được. Nhưng người Nhật thì không.

Bản tiếng Việt: HIẾU TÂN, 2011 


Thảm họa hạt nhân ghê rợn ở Nhật Bản nguy hiểm đến mức nào?
(How Dangerous Is Japan's Creeping Nuclear Disaster?)


Veronika Hackenbroch, Takako Maruga và Cordula Meyer 
SPIEGEL 30/3/2011
http://www.spiegel.de/international/world/0,1518,753530,00.html


Ảnh: DPA
Các lò phản ứng ở Fukushima bị hư hại đã thoát phóng xạ hàng tuần nay. Theo những phép tính hiện đại, các nhà máy hạt nhân có thể đã phóng thoát khoảng một phần mười lượng phóng xạ hoát ra ở thảm họa Chernobyl. Thảm họa này đã đặt lên loài người một nguy cơ nghiêm trọng đến mức nào?
Các nhà kỹ thuật đã cố gắng trong nhiều ngày để khôi phục lại nguồn điện duy trì hoạt động của nhà máy điện hạt nhân Fukushima. Nhưng sau đó chỉ những đôi ủng cao su bình thường đã trở thành biểu tượng của nỗi thất vọng, tình trạng vô phương cứu giúp và thất bại của họ. 
Vào hôm thứ Hai, ba người đàn ông bước vào tầng hầm của khu nhà tuôc bin cho lò phản ứng số 3 để khảo sát tình hình ở đó. Khi quay trở ra, họ đã trang bị đầy đủ các đồ phòng hộ chống khí độc bao gồm mũ bảo hộ, mặt nạ, găng tay và áo mưa cao su bên ngoài bộ đồ chống phóng xạ của họ.
Chỉ có một việc mà những người đàn ông ấy không chuẩn bị, là bỗng nhiên họ buộc phải lội qua mấy inch nước. Hai người chỉ đi ủng cao đến mắt cá chân, khiến nước có thể ngấm vào. Với đôi chân ướt, những người đàn ông này làm việc trên đường cáp suốt ba phần tư giờ, mặc kệ dụng cụ định lượng của họ phát ra tiếng kêu bip bip hồi lâu. 
Những công nhân ấy bây giờ được theo dõi chăm sóc ở Viện Khoa học Hạt nhân Quốc gia. Nước ở Fukushima ô nhiễm đến mức bức xạ bê ta đốt cháy da họ. Trong vòng không đến một giờ, họ bị phơi ra trước 180 milisievert phóng xạ, gấp chín lần mức phóng xạ mà nhân viên của nhà máy điện hạt nhân bị phơi ra trong suốt một năm. “những vùng da bị cháy này gây ra nhiều vấn đề cho những người đàn ông này trong một thời gian dài trước mắt.” Peter Jacob, giám đốc Viện Phòng ngừa Phóng xạ thuộc Trung tâm Helmholtz ở Munich, Đức. Bình luận về vụ phơi nhiễm này, một người cùng làm việc với ba người kia nói một cách ngắn gọn: “Chúng tôi đã rất chú ý. Nhưng bây giờ chúng tôi phải chú ý cẩn thận hơn rất nhiều khi làm việc.”
Một lần nữa, vụ tai nạn này bộc lộ cho thấy các chuyên gia ít biết về những nguy hiểm vẫn còn ẩn núp trên mảnh đất của nhà máy xấu số này như thế nào. Không ai nghĩ mức phóng xạ trong nước ở tầng hầm lại có thể cao đến thế. Mức phóng xạ trong nước ở tầng hầm của các lò phản ứng số 1, số 2 và số 3 đạt đến kỷ lục, trong đó nước của lò số 2 đo được 1,000 millisieverts trong một giờ. Điều này do lõi lò đã bị tan chảy một phần. Ngoài ra, thùng cách ly của lò phản ứng thứ ba đã bị hư hại rõ rệt, đại diện của Cơ quan Điều tiết Năng lượng Hạt nhân Nhật Bản kết luận. Điều đó có thể là có một vết nứt trong rào chắn giữa lõi có độ phóng xạ cao và môi trường xung quanh?
Đầu tuần trước đã hé ra những cơ sở cho một niềm lạc quan thận trọng. Điện đã được khôi phục cho lò phản ứng hạt nhân số 1 bị hư hại, một máy trộn bê tông Đức bơm nước vào bể chứa trống rỗng một cách nguy hiểm chứa các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng trong tổ máy số 4, và trong suốt một tuần trong nhà máy không xảy ra vụ nổ nào. Hai tuần trôi qua kể từ khi thảm họa Fukushima bắt đầu, tất cả những cái này xem ra có vẻ tốt lành.

“Một vụ rò rỉ phóng xạ lớn đang tiếp diễn” 
Tuy nhiên, trong thời gian ấy, các kỹ sư buộc phải thừa nhận rằng họ hầu như không tiến được bước nào trong việc khôi phục hệ thống làm mát. Vào đêm thứ Sáu, tại các lò phản ứng bị hư hại, vẫn chưa có bơm nước nào hoạt động. Trong các thùng cách ly, có đến 45 tấn muối biển đọng lại, khiến cho các cố gắng làm mát thêm khó khăn. Muối kết tinh ở những chỗ nóng ấm, và tạo ra một lớp cách nhiệt không mong muốn. Vào buổi chiều thứ Sáu các kỹ sư có ý định bắt đầu bơm sục rửa nước ngọt vào các lò phản ứng. Nhưng các lò phản ứng chỉ là một vấn đề. Còn có vấn đề khác về 3.450 thanh nhiên liệu đã qua sử dụng, chúng đang nóng đỏ, có lẽ đã hư hại nghiêm trọng, và nhô ra không khí trong những bể chứa trống rỗng một nửa. 
“Chúng ta đang trải qua một vụ rò rỉ phóng xạ cực lớn và tăng lên liên tục,” Wolfram König, thủ trưởng cơ quan Phòng ngừa Phóng xạ Liên bang Đức nói. “Và ngay bây giờ mọi người nên biết rằng vụ này sẽ không kết thúc một sớm một chiều.” Chuyên gia hạt nhân Helmut Hirsch nói: “Tất cả những gì tôi nghe được là mọi người đang tự hỏi liệu chuyện này có thể biến thành một vụ lõi lò chảy tan[2] không. Nhưng sự thật là, nó đã chảy tan một phần.” Sự khác nhau, trong trường hợp này, là Fukushima là một thảm họa ghê rợn. 
Hướng gió thay đổi hôm thứ Sáu lại làm cho tình hình càng xấu thêm. Các hạt phóng xạ trên Thái Bình Dương hiện nay đang trôi giạt qua Nhật Bản về hướng tây. Mức phóng xạ cao đã được phát hiện trong rau, nước và đất gần nhà máy Fukushima.
Chính quyền Nhật Bản cho đến lúc này mới chỉ sơ tán được một khu vực trong vòng 20 km tính từ Fukushima. Nhưng nguy cơ do phóng xạ cũng đang lớn lên đối với những người ở bên ngoài khu vực này. “Đây là thời điểm quan trọng chính quyền các cấp của Nhật Bản mở rộng vùng sơ tán 20 km xung quanh nhà máy điện hạt nhân Fukushima ghê rợn ấy. Những phụ nữ có thai và trẻ nhỏ nên được sơ tán ngay lập tức khỏi một khu vực nguy hiểm đang tăng lên liên tục,” Nhà bình luận hạt nhân Mycle Schneider, tác giả chủ biên của Báo cáo về Tình trạng Công nghiệp Hạt nhân Thế giới viết. Phôi mầm, bào thai và sơ sinh chịu nguy cơ cao nhất, vì phóng xạ nhằm vào những tế bào phân chia nhanh.
Hiện nay có 77.000 người đang sống trong những hầm trú ẩn khẩn cấp được xây tại những địa điểm như các phòng tập thể dục. 62.000 người khác sống trong vùng 30 km. Lãnh đạo của Cơ quan Điều tiết Hạt nhân Hoa Kỳ (NRC) khuyên nên mở rộng vùng sơ tán đến 80 km, trong trường hợp đó 2 triệu người sẽ phải dời chỗ - cộng thêm với hàng tram nghìn nạn nhân động đất và song thần. Chính quyền Nhật Bản hiện giờ đang yêu cầu người dân tự nguyện dời khỏi khu vực này.
Những người Nhật bị vây hãm đang nhận được tới tấp những lời khuyên đầy lo lắng, những yêu cầu, và suy đoán từ Hoa Kỳ, Nga, Phần Lan, và Đức. Ngay cả Cơ quan An toàn Hạt nhân Pháp ISRN, không được biết chính xác vì cách tiếp cận cảnh báo đối với những nguy cơ hạt nhân, tuần trước cũng công bố một phép tính mẫu gây lo ngại. Theo báo cáo này, vào hôm thứ Sáu nhà máy Fukushima đã phóng thoát ra môi trường một phần mười lượng chất phóng xạ rò rỉ ở Chernobyl năm 1986.
Tuy nhiên, Cơ quan Nguyên tử Năng Quốc tế (IAEA) cho rằng phép tính này là quá phóng đại. Theo các tính toán của nó, dựa trên các thông số đọc được trên các thiết bị đo lường tại chỗ, lượng phóng xạ rò rỉ cho đến hôm nay chỉ bằng một phần nhỏ của dự tính của Pháp.

Thực phẩm và nước bị ô nhiễm
Các nhà vật lý và các kỹ sư Pháp đưa ra các giả thuyết dựa trên hiểu biết của họ về lượng vật chất tách ra trong các lò phản ứng hạt nhân, nghiên cứu trạng thái của các thanh nhiên liệu nóng chảy và các thống số đọc được trong vùng lân cận Fukushima. Chuyên gia hạt nhân Đức Helmut Hirsch, người đã thực hiện các phép toán hiện đại cho Greenpeace, nói: “Đây không phải là một sự phóng đại.” Có hơn 2.500 tấn uranium và plutonium ở Fukushima, “một lượng phóng xạ khổng lồ, ít nhất bằng 20 lần lượng ở Chernobyl,” nhà bình luận hạt nhân Schneider nói.
Thật ra, sự thể có thể tồi tệ hơn nhiều, hơn rất nhiều so với những dự báo của Pháp. Các nhà khoa học Pháp giả định rằng phần lớn các hạt phóng xạ hiện đang được đo đến từ thùng phản ứng số 1,2 và 3. Các thanh nhiên liệu hoạt tính, là thứ rất khó làm mát, đã làm cho nhiệt độ trong các thùng cách ly tăng lên rất nhiều, đến mức các kỹ sư nhà máy buộc phải cho thoát không khí đã nhiễm phóng xạ qua các van ở bên trong các lò phản ứng. Trong các lò phản ứng ở Đức, các van khẩn cấp này chứa các bộ lọc để giữ lại các hạt phóng xạ. Trong nhà máy Fukushima không có những bộ lọc như thế.
Tuy nhiên, kịch bản tốt nhất, trong hoàn cảnh hiện tại, có lẽ là cho phép phóng xạ thoát ra môi trường theo cách này. Quả thực, các kỹ sư ở Fukushima đã không phải xả thêm hơi nước nhiễm xạ này trong hơn một tuần nay. Nếu các giả thuyết của Pháp mà đúng, thì sự phát xạ tồi tệ nhất có thể đã kết thúc.

“Chúng tôi không có một ý tưởng mong manh nào về tình trạng hiện nay là gì.”
Các chuyên gia khác bênh vực một lý thuyết khác. Chẳng hạn, Bill Borchardt của NRC cho rằng mức phóng xạ cao gần Fukushima chủ yếu là do các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng trong các bể ngâm.
Đây có lẽ là một vấn đề khó khăn hơn nhiều. Các thanh nhiên liệu đã qua sử dụng, bình thường được ngâm dưới nước và được che bằng mái tòa nhà của lò phản ứng, bây giờ đang phát xạ ra không khí. Chỉ có nước làm mát mới ngăn được các thanh nhiên liệu khỏi nóng chảy, thế nhưng nước làm mát lại liên tục biến thành hơi nước nhiễm xạ. Vấn đề còn đáng lo ngại hơn là làm thế nào có thể đổ thêm nước vào các bể ngâm, những bể này có thể đã hư hỏng trong cuộc động đất.
Bao nhiêu phóng xạ đã bị rò rỉ còn phụ thuộc vào tình trạng của phần tử nhiên liệu. Một phần tử nhiên liệu bao gồm khoảng 100 thanh nhiên liệu dài bốn mét, mỗi thanh mảnh như một ngón tay cái người. Bản thân các thanh làm bằng hợp kim zirconium, được nạp đầy những viên uranium oxide tròn, giống như những viên thuốc trong một tuýp thuốc. Tuy nhiên các chuyên gia sợ rằng lớp vỏ kim loại có thể đã bị ô xy hóa và đã tan chảy từng phần. Nếu điều đó xảy ra, một lượng lớn hơn các sản phẩm tách ra đang thoát ra từ các thanh nhiên liệu.
Các thiết bị đo trong một chiếc trực thăng bay trên nhà máy đã đo được 80 millisievert bức xạ tại độ cao 40 mét bên trên mái nhà máy, các mức này hạ xuống chỉ còn 4 millisievert nếu lên cao thêm 200 mét. Điều đó cho thấy bức xạ đến thẳng từ các bể ngâm.
Liệu có thể chứng minh rằng sự đánh giá này là hoàn toàn sai không? “Tôi nghĩ chúng tôi không có một ý tưởng mong manh nào về tình trạng trong các tòa nhà lò phản ứng là gì,” Borchardt của NRC nói.

“Phát hiện thấy phóng xạ trong rau”
Là một người Mỹ, Borchardt khá quen thuộc với vấn đề này. Sau sự cố lò phản ứng ở Three Mile Island gần Harrisburg, Pennsylvania năm 1979, phải mất sáu năm các kỹ sư mới có thể mở lõi lò phản ứng. Mãi đến lúc đó họ mới thấy được quá trình tan chảy đã tiến đến đâu. Hiện nay Hoa Kỳ đang cần một hệ thống theo dõi những tai nạn như thế. Nó đo phóng xạ đã bị rò rỉ bao nhiêu, cũng như tình trạng của các thanh nhiên liệu. Nhật Bản không có hệ thống nào như thế.
Ngược lại Tepco, công ty vận hành nhà máy này, đã công bố những bức ảnh chụp trong lúc mất điện. Chúng cho thấy các công nhân với đèn pin và bìa kẹp đang mò mẫm đi qua phòng điều khiển tối đen như mực của lò phản ứng đơn vị 1 và 2 để kiểm tra các thiết bị đo lường.
Mặt khác, phương án thay thế duy nhất là đọc các tín hiệu khói. Các chuyên gia cho rằng khói đen đến từ các đường cáp và các mảnh vụn, trong khi khói trắng biểu thị nước bốc hơi phía trên các phần tử nhiên liệu nóng.
Trong khi đó Tepco đo được 500 millisievert trên giờ gần lò phản ứng số 2. Bất kỳ ai còn ở lại khu vực này trong 12 giờ sẽ chết vì phóng xạ. Mức phóng xạ trong khu vực gần ba người thợ điện bị nhiễm xạ cũng cao gần như thế. 
Phóng xạ quái ác này từ lúc đó đã lan rộng ra ngoài mảnh đất của nhà máy điện hạt nhân. Các máy phát hiện phóng xạ trong an toàn thực phẩm đã đo được 82.000 bequerel trên kilogram trong cải bắp trồng ở một vùng cách Fukushima 40 km về phía tây bắc. Giá trị tối đa cho phép là 500. Con số cao nhất đo được trong rau bina là 54.000 bequerel trên kilogram.
Một lần nữa, các kinh nghiệm từ Chernobyl cho thấy, phóng xạ có thể lưu giữ trong dây chuyền thực phẩm trong bao lâu. Khoảng 25 năm sau sự cố lò phản ứng, thịt từ một trong năm con lợn lòi đực hoang dã các thợ săn bắn được trong những vùng của Bavaria phải vứt đi, vì nó chứa 1.000 bequerel trên kilogram.
Chinh quyền Nhật Bản cũng tìm thấy iốt phóng xạ trong nước uống, mặc dầu mức vẫn còn khá thấp. Tuy nhiên, khi chính phủ khuyên không nên dùng nước máy để làm thức ăn cho trẻ nhỏ, các siêu thị ở Tokyo đã nhanh chóng bán ra nước đóng chai. “Không còn một chai nào trên kệ hàng” Philip White của Trung tâm Thông tin Hạt nhân cho Công dân, trung tâm của phong trào chống hạt nhân Nhật Bản, cho biết.
Việc mua bán hoảng loạn ở Tokyo đã khiến cho việc cung cấp nước uống cho nhân dân trong các vùng bị sóng thần, nơi mà hệ thống đường ống nước bị phá hủy, thêm khó khăn. Nhưng điều gì xảy ra nếu phóng xạ trong nước uống đạt đến mức thật sự đáng lo ngại?

Các phép đo phóng xạ đáng tin cậy đến mức nào?
Người Nhật sẽ phải học cách suy nghĩ bằng millisievert. Chẳng hạn, lượng cao nhất trong một giờ được báo cáo ở rìa vùng sơ tán là 0,16 millisievert. Một người có đến 25 ngày thường xuyên phơi ra trước những mức như thế có thể nhận liều lượng tối đa cho phép mỗi năm đối với những công nhân tại các nhà máy điện hạt nhân.
Còn có một nghĩa ngầm về việc không tin tưởng vào độ tin cậy của các phép đo phóng xạ thật sự ra sao. Và các nhà phê bình tự hỏi tại sao các con số phóng xạ cao nhất đọc được gần Fukushima thường xuyên do các nhân viên cảnh sát lấy chứ không phải do Tepco hay cơ quan điều tiết hạt nhân Nhật Bản.
Nhưng ngay cả nếu những nghi ngờ đó là vô căn cứ, khía cạnh âm ỉ trong phóng xạ là nó quá khó đoán trước. “Chúng ta sẽ thấy một sự chắp vá xen kẽ các vùng có mức độ phóng xạ cao và thấp.” Peter Küppers của Viện Sinh thái Darmstadt ở vùng Tây nam nước Đức nói. Các mức phóng xạ phụ thuộc vào hướng gió, mưa và nơi tụ nước. Sau Chernobyl sự chênh lệch là cùng cực. “Có những vùng ở đông bắc Baravia và Hồ Konigssee ở Đức bị ô nhiễm nặng hơn một số vị trí trong khu vực ngăn chặn 30 km liền quanh Chernobyl,” Küppers nói.
Sự phân tán trên một vùng rộng lớn như thế ở Nhật Bản trên thực tế có thể được loại trừ. Điều này chỉ xảy ra ở Chernobyl vì lò phản ứng cháy trong nhiều ngày, cuốn chất phóng xạ vào các tầng không khí cực cao.
Lớp bụi phóng xạ rơi xuống đâu phần lớn còn phụ thuộc vào gió ở Nhật Bản. “Lúc đầu Nhật Bản đã rất may, về phương diện thời tiết,” König của Cục Phòng ngừa Phóng xạ Liên bang Đức nói. Những chiếc lông chim tai hại ấy lúc đầu bị cuốn ra biển. Nhưng các vị thần thời tiết không phải bao giờ cũng sẵn lòng thương như thế.

Một linh cảm xấu và bất tường
Trong số cư dân của Fukushima luôn luôn có một linh cảm xấu. Yoshihiro Amano sở hữu một cửa hàng tạp phẩm nhỏ cách nhà máy hạt nhân sáu kilomet. Bây giờ ông đang xếp hàng chờ một tô mì ở một trung tâm di dân, cố gắng tận dụng hoàn cảnh. “Giận dữ cũng chẳng giải quyết được gì,” ông nói. “Nhưng chúng tôi sợ. Chúng tôi không biết phải nhiều ngày, nhiều tháng hay nhiều thập kỷ nữa, chúng tôi mới lại được trở về nhà cũ.”
Từ nay trở đi người Nhật sẽ phải sống với tình trạng không chắc chắn này, bởi vì hiểu biết của chúng ta về tác động của phóng xạ hạt nhân đối với sức khỏe còn sơ sài khủng khiếp.
Những nghiên cứu lên quan đến những người sống sót sau Hiroshima và Nagasaki là nếu 100 người nhận một liều lượng 100 millisievert, thì một trong số đó cuối cùng sẽ chết vì ung thư do kết quả phơi nhiễm.
Điều này chắc chắn có thể được coi như một mẩu tin an ủi. Một mặt, nó chỉ ra rằng nếu 40 trong số 100 người Nhật sẽ chết bình thường tại một điểm nào đó trong cuộc đời, thì con số này chỉ tăng lên thành 41 trong số 100 người phơi nhiễm100 millisievert phóng xạ. Mặt khác, con số 100 millisievert là một là một liều lượng khổng lồ. Cho đến hôm nay, mới chỉ có vài người công nhân ở Nhật bị phơi nhiễm trước một sự phóng xạ ồ ạt đến thế.
Nhưng còn những người bị nhiễm mức phóng xạ thấp hơn thì sao? Điều gì xảy ra nếu mỗi người trong số 35 triệu cư dân Tokyo bị phơi ra trước một vài millisievert phóng xạ? Có mấy câu hỏi trong khoa học đang được thảo luận sôi nổi hơn, nhưng chưa có câu trả lời nào đáng tin cậy.

“Liều lượng nào cũng nguy hại”
Có một việc rõ ràng: Ngay cả trong vùng xung quanh Chernobyl, về phương diện thống kê cũng không có chứng cớ nào có ý nghĩa về việc tăng các mức của bệnh bạch cầu và ung thư sau khi tai nạn xảy ra. Có một ngoại lệ là bệnh ung thư tuyến giáp trong trẻ em, là có chứng cứ rõ ràng liên hệ với tai nạn đó. Mặt khác, không có giới hạn chính thức thấp hơn, sao cho tại đó phóng xạ trở nên vô hại. “Liều lượng nào cũng đều nguy hại cả” Edmund Lengfelder, giám đốc Viện Ngiên cứu Phóng xạ của Otto Hug ở Munich nói. “Và người càng trẻ càng dễ bị hại.” 
Phóng xạ là nguy hiểm nhất đối với phôi thai trong tử cung trong những giai đoạn phát triển sớm nhất của nó. Phóng xạ có thể gây hội chứng Down, bifida cột sống, biến dạng vòm miệng và các khuyết tật trẻ em khác. Biến đổi gen có thể được chuyển qua thế hệ sau, như phép thử DNA về sức khỏe con cái của những người công nhân liên quan đến việc thu dọn Chernobyl đã cho thấy.
Theo kết quả của một mô phỏng đáng lo ngại mà ủy ban an toàn hạt nhân Nhật Bản vừa cho ra, trẻ nhỏ bên ngoài bán kính 30 km quanh nhà máy hạt nhân bị phá hủy có thể đã hấp thu một lượng 100 millsievert trong các tuyến giáp của chúng, do iôt phóng xạ rò rỉ khỏi nhà máy. Ở những trẻ hai tuổi, điều này làm tăng nguy cơ phát sinh ung thư tuyến giáp vào năm 15 tuổi lên năm lần. 
Về lâu dài, chất đồng vị phóng xạ cesium 137 thậm chí còn nguy hiểm hơn iôt phóng xạ. Nó có chu kỳ nửa phân rã 30 năm và tích tụ trong đất và trong động vật. “Cesium 137 tản ra phân bố trong khắp cơ thể và do đó có thể gây ra ung thư ở nhiều chỗ,” Wolfgang-Ulrich Muller, một nhà sinh học vô tuyến ở thành phố miền tây nước Đức Essen nói.
Có thể sau nhiều năm hay nhiều thập kỷ điều đó mới xảy ra. Tuy nhiên, Wolfram König, lãnh đạo cục Phòng ngừa Phóng xạ Liên bang Đức, tin rằng phóng xạ từ nhà máy điện hạt nhân Fukushima đã có những nạn nhân đầu tiên của nó, do nỗi sợ phóng xạ chứ không phải do bản thân phóng xạ. “Có thể trong số những người chết trong đống đổ nát có nhiều người thiệt mạng chỉ vì không ai dám cứu họ.” König nói.


Bản tiếng Anh: Christopher Sultan dịch từ tiếng Đức.
Bản tiếng Việt: Hiếu Tân, 30032011


ĐỊNH MỆNH TOKYO
Can đảm đối mặt với thảm họa

http://www.spiegel.de/international/world/0,1518,753688,00.html
Walter Mayr
SPIEGEL, 29/3/2011


Ảnh: REUTERS
Nhiều người nước ngoài đã rời bỏ Tokyo. Nhưng người Nhật đang đối mặt với mối đe dọa đang tiếp diễn đặt lên nhà máy hạt nhâ Fukushima với sự trộn lẫn lo âu và bình thản. Niềm tin của họ vào khả năng vượt qua của đất nước không hề suy suyển.
Shinkansen trông như một con rồng sặc sỡ không có cánh trên những đường ray khi nó lao đi từ sân ga 25 của nhà ga xe lửa Osaka trong buổi sáng sớm hôm nay ngay sau lúc mặt trời mọc. Nhân viên phục vụ trên tàu cứng nhắc trong các bộ đồng phục và đeo găng tay trắng đi mời khách đồ ăn thức uống.
Nhưng đoàn tàu thưa khách. Nó đang thẳng hướng lên phía bắc - đến Tokyo.
Ngày hôm trước, thủ đô đã rung động vì những dư chấn mới. Các báo cáo về nước uống bị nhiễm phóng xạ - đến mức mà nước máy không thể dùng để pha sữa cho trẻ em nữa - cũng làm cho cư dân xao động. Hơn hai tuần sau khi trận động đất mạnh 9,8 độ và cơn sóng thần kéo theo nó tàn phá miền bờ biển đông bắc đảo Honshu, theo báo cáo hơn 27.000 người đã chết hoặc mất tích. Các lò phản ứng bị tàn phá ở nhà máy điện hạt nhân Fukushima lại tiếp tục nhả khói và hơi nước.
Nói cách khác, đó là những tin buồn cho những người khách lầm lì trong những bộ đồ mầu xẫm khi họ lao nhanh đến bờ biển với tốc độ đến 300 km/giờ để làm việc ở Tokyo. Bên ngoài cửa sổ, những ngôi nhà ít ỏi cuối cùng trên vùng ngoại ô Osaka, dân cư 2,7 triệu, lướt nhanh qua. Những ngày này, những ai ở lại thành phố này là có lựa chọn.
Osaka, trên bờ biển Thái Bình Dương Nhật Bản - được yêu cầu nhiều những ngày này - chẳng khác gì một ghế trong hàng ghế thoát hiểm trên máy bay. Anh lên máy bay rồi, nhưng sẵn sàng ra bất cứ lúc nào. Thành phố này cách thảm họa hạt nhân đang tiếp diễn ở Fukushima khoảng 600 kilomet, và có một sân bay quốc tế và những chuyến tàu cao tốc giảm giá. 

Người đầu tiên ra đi
Những người nước ngoài, lưu ý đến những lời khẩn nài và cảnh báo từ nhà, là những người đầu tiên rời khỏi Tokyo. Các đại sứ Đức, Áo, và Thụy Sĩ tạm thời dời đến Osaka, cũng như nhân viên của nhiều công ty quốc tế. Từ lúc đó, họ luôn theo dõi truyền hình Nhật từ một khoảng cách an toàn - những hình ảnh của các nạn nhân cuộc động đất mạnh được vây bọc bởi hàng núi mảnh vụn, hay những người mẹ mỉm cười dùng nước đóng chai pha sữa cho con. Từ Osaka, chúng là những hoạt cảnh từ một cơn ác mộng trong một thế giới khác.
Các hành khách đọc kỹ các báo buổi sáng, khi con tàu lao vụt qua cố đô Kyoto. Tin tức không mấy tốt lành: ô nhiễm phóng xạ trên biển; các vấn đề về cung cấp điện do 20 phần trăm sản xuất điện hạt nhân ở Nhật Bản đang ngừng hoạt động; và những rối loạn trong các công ty Nhật Bản. Riêng Toyota đã giảm sản xuất 10.000 xe con mỗi ngày.
Tuy nhiên, vẫn có một thông điệp giữa các dòng chữ. Những người trốn chạy khỏi các vấn đề như thế, những người ngồi ở Osaka để đợi cho chúng qua đi, chắc chắn là một gaijin - một người không-Nhật hay người ngoài cuộc. Một ai đó không hiểu rằng bây giờ hơn bao giờ hết, mỗi cái răng trong một bánh răng đều có giá trị. Một ai đó né tránh trách nhiệm của mình trong khi một anh hùng như Nakamura Junichiro liều thân để làm nguội các lò phản ứng ở Fukushima.
Con tàu Shinkansen đến ga Tokyo lúc 9 giờ 43 sáng. Mạch của thủ đô đang đập đều nhưng chậm hơn bình thường. Các đường phố không đông đúc như thường lệ, các máy bán vé tại một số ga xe điện ngầm không làm việc, như một phần của cố gắng chung tiết kiệm điện. Trong các quầy hàng ở quận buôn bán Shinjuku, nhân viên công sở nhìn chằm chằm vào màn hình vô tuyến đang đưa tin tức cập nhật từng giờ từ khu vực thảm họa. Bình thường mọi năm vào thời điểm này, các báo cáo tường thuật về mùa hoa anh đào đã tràn ngập các làn sóng điện. 
Trong cả thành phố không hề có một người biểu tình phản đối.

Ít có dấu hiệu hoảng loạn
Điều này thật đáng kinh ngạc nếu ta lưu ý rằng người Nhật hoàn toàn biết rõ rằng Fukushima cuối cùng có thể biến thành một Chernobyl mới. Nhưng những cảnh báo càng lớn tiếng thì người ta càng chạy đi xa hơn khỏi các vùng thảm họa: đến tận châu Âu xa xôi và đến tận Hoa Kỳ. Ở Tokyo lớn hơn, nơi trú ngụ của 35 triệu người, giống như các vùng khác của đất nước, ít có chứng cứ hoảng loạn.
Khả năng xảy ra một thảm họa hạt nhân chưa bao giờ là một vấn đề thật sự ở Nhật Bản. Mặt khác, ký ức về những trận động đất và chiến tranh, sóng thần và bão tố, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Dường như cái chu trình không đổi phá hủy và dựng xây này là một phần của huyền thoại dân tộc. Phần lớn Tokyo đã bị phá hủy trong một trận động đất năm 1923 và một lần nữa trong các cuộc oanh tạc của không quân Hoa Kỳ năm 1945. Trong cùng năm ấy, những trái bom nguyên tử Mỹ đã phá hủy phần lớn Hiroshima và Nagasaki. Nhưng sau mỗi bi kịch, kể cả trận động đất Kobe năm 1995 làm chết 6.400 người, Nhật Bản lại xây dựng lại.
Nhà chuyên gia về châu Á Ian Buruma viết, các lực lượng phá hủy của thiên nhiên “trong một chừng mực nhất định là một phần của văn hóa Nhật Bản.” Điều này tạo ra mảnh đất màu mỡ cho một thuyết định mệnh Nhật Bản đã phát triển xuyên suốt lịch sử và lên đến cực điểm trong thành ngữ “shikata ga nai” có nghĩa là “chịu chết, không làm gì được.” Một sản phẩm khác là niềm tin phổ biến rằng không có cái gì đẹp trên trái đất này là vĩnh cửu, và rằng nhân dân Nhật Bản phải xiết chặt hàng ngũ trong những thời khắc nguy khốn của thảm họa quốc gia.
Các lãnh đạo chính trị Nhật Bản là hiện thân vật chất của thiên hướng này khi họ xuất hiện trước ống kính camera trong những bộ đồ bảo hộ lao động màu xanh cực kỳ sạch và luôn được là ủi phẳng phiu, ăn mặc như những đốc công của dân tộc - ngay cả khi họ chỉ cung cấp những mảnh vụn của sự thật cho nhân dân của họ. Họ là hình ảnh phản chiếu của một hệ thống thành công dường như đã vượt qua chính nó từ lâu.

“Một thế hệ ăn bám”
Cường quốc kinh tế lớn thứ ba thế giới này nay đã là nước nợ nhiều nhất trong tất cả những nước công nghiệp phát triển, với 200 phần trăm tổng sản phẩm quốc nội của đất nước. Đảng Dân chủ Tự do (LDP) cầm quyền ở Nhật Bản trong hơn nửa thế kỷ trước khi đảng Dân chủ Nhật Bản (DPJ) và đương kim Thủ Tướng Naoto Kan lên nắm quyền năm 2009, để lại đằng sau một xã hội già nua bởi nạn chạy khỏi nông thôn, thanh niên thất nghiệp và thói cậy thân cậy thế.
Tuy nhiên, người Nhật vẫn ngại biểu lộ tức giận đối với giai cấp thống trị, bao gồm những người trong chính quyền và các đồng minh của họ trong những vị trí then chốt trong kinh tế, và những người điều hành trong những công ty như TEPCO, công ty điện lực chịu trách nhiệm về những lò phản ứng bị phá hủy ở Fukushima.
Có vẻ như giới trẻ Nhật Bản không coi thảm họa hiện nay là một bước ngoặt - chắc chắn là những ai áo quần tươm tất đi dạo trên những đường phố buôn bán của quận Harajuku Tokyo; những cậu trai trông như pêđê với những kiểu đầu manga và những cô gái son phấn trang điểm kỹ lưỡng trông gần như những búp bê, thì lại càng không. Ngay cả khi những cơn gió tây bắc thổi từ Fukushima mang theo mưa, họ vẫn dạo bước qua các cửa hiệu, khoảng một phần ba mang mặt nạ - để phòng ngừa phấn hoa, không phải phóng xạ. 
Những đứa con này của các bậc cha mẹ siêng năng làm lụng, mang tiếng là “thế hệ ăn bám” phi chính trị, chỉ là một dấu hiệu của những gì mà thống đốc Tokyo, Shintaro Ishihara, con người luôn gây nhiều tranh cãi, gần đây phê phán như một sự xuống dốc các giá trị đạo đức, khi ông nói rằng những đồng bào Nhật này của ông đã đầu hàng chủ nghĩa vị kỷ. “Cơn sóng thần là một dịp tốt để tẩy rửa thói tham lam này, và chúng ta phải lợi dụng nó,” ông nói. “Thật tình, tôi nghĩ nó là sự trừng phạt của thánh thần.”

Thời khắc Khó khăn nhất của Nhật Bản
Cho dù sau đó ông đã xin lỗi, việc cho rằng ông già Ishihara 78 tuổi, hiện đang vận động tái cử, đang cố gắng lôi kéo cử tri bằng lời chỉ trích này nghe có vẻ hợp lý. Tuy nhiên, giọng nói của ông chọc thủng cái im lặng nặng nề đã bao trùm đất nước. Không có ai khác là Ishihara đã giáng một đòn phản đối Thủ tướng trong tuần trước, về những cáo buộc rằng các lính cứu hỏa Tokyo đã bị bắt buộc phải dấn thân vào công việc hiểm nghèo ở các lò phản ứng Fukushima và bị đe dọa trừng phạt nếu họ không hợp tác.
Vị quan chức bị lên án vì đã đưa ra lời đe dọa là Bộ trưởng Kinh tế, Thương mại và Công nghiệp Banri Kaieda, phản ứng ngay lập tức. Câu trả lời của ông với lời lẽ thận trọng như một lời thú tội điển hình của người Nhật, cùng với yêu cầu đồng thời cho phép ông được ở lại cương vị cũ. “Nếu những lời lẽ của tôi xúc phạm đến các chiến sĩ cứu hỏa,” Kaieda nói, “Tôi xin được nói lời xin lỗi”
Nếu có điều gì đó đã làm tổn thương Trung úy Nakamura Junichiro, thì không phải những lời lẽ của vị bộ trưởng mà chính là phóng xạ nghe nói rò rỉ từ lò phản ứng số 3 đặc biệt nguy hiểm. Junichiro lúc đó đứng cách lò 25 mét.
Ông là một người đàn ông nhã nhặn, 45 tuổi, có vợ và một con gái, và trong sáu năm qua, là thành viên kiêu hãnh của “Hyper Rescue” một đơn vị tinh hoa của cục cứu hỏa Tokyo. Junichiro đã đến nhà máy điện hạt nhân Fukushima chín lần sau khi sóng thần cao 14 mét đổ vào vùng bờ biển này. Ông đội mũ bảo hiểm, đeo dụng cụ đo quanh cổ và mặc bộ áo liền quần chống phóng xạ màu trắng làm bằng polyethylene.

“Bổn phận của tôi”
Ông cùng với năm chiến sĩ cứu hỏa khác đặt những ống mềm xuống bờ biển và đưa các bơm vào vị trí, cho đến khi, cuối cùng, nước biển chảy rào rào xuống các lò phản ứng bị quá nhiệt. Dụng cụ đeo quanh cổ Junichiro ghi được mức phóng xạ 16 millisievert sau 80 phút. Mặc dầu đấy là mức phóng xạ cao hơn sáu lần so với mức một người bình thường hấp thụ trong cả năm dưới những điều kiện bình thường, nó vẫn chỉ là một phần nhỏ của giới hạn mới được điều chỉnh gần đây áp dụng cho các kỹ thuật viên và công nhân làm việc ở lò phản ứng.
Junichiro nói rằng ông không do dự một giây trước khi làm phần việc của mình. “Đây không phải là lựa chọn của tôi, nhưng tôi muốn đến đó. Đây là giờ phút khó khăn nhất của Nhật Bản. Nó là bổn phận của tôi.”
Những tin tức hôm thứ Sáu tuần trước rằng thùng cách ly cho lò phản ứng số 3 , nơi Junichiro đang làm việc, có thể đã hư hỏng gây ra một sự xôn xao. Trong khi người vận hành nhà máy vật lộn để đối phó, Thủ tướng Kan quyết định, như một sự phòng trước, lên nói với nhân dân trên truyền hình. Ông nói rằng ông muốn cám ơn tất cả những ai đang “liều thân mình” ở Fukushima, kể cả các chiến sĩ cứu hỏa, binh lính và những nhà kỹ thuật.
Tuy nhiên, vẫn còn bối rối rằng trong lãnh vực của các kỹ sư phần mềm và các nhà chế tạo robot, không ai biết chính xác những con người quên mình trên tuyến đầu ở Fukushima đang phải đối phó với chuyện gì. Ngay cả Robert Gale, bác sĩ Hoa Kỳ là người được chính phủ Liên Xô dưới thời Tổng thống Gorbachev mời đến để khám cho các nạn nhân Chernobyl, và bây giờ đang được coi như là nhà tiên tri sống về hạt nhân ở Tokyo, cũng không biết.
Gale nói rằng lúc này Nhật Bản đang theo phương châm “phòng bệnh hơn chữa bệnh” Mặc dầu phạm vi của thảm họa vẫn còn chưa được biết, những đã rõ rằng “những thanh nhiên liệu đã qua sử dụng là vấn đề chính.” Ông nói thêm rằng có lẽ ông phải kiểm tra nhà máy bị hư hại này để đi đến một sự đánh giá tình hình chính xác hơn.

100 lần cao hơn bình thường
Giáo sư Mikiso Iwasa, 82 tuổi, không hoàn toàn quan tâm đến việc xem xét trực tiếp thảm họa. Ngồi trong phòng làm việc giản dị của ông ở trung tâm thương mại Tokyo, Iwasa kể câu chuyện về thời trẻ, ông đã thoát chết qua cảnh cháy rừng rực ghê sợ như địa ngục ở thành phố quê hương Hiroshima của ông, bằng cách lặn xuống một bể chứa đầy nước. Ông là một Hibakusha, thuật ngữ Nhật Bản chỉ những người sống sót sau các cuộc đánh bom nguyên tử của Mỹ. Ông hiến dâng phần còn lại của đời mình cho cuộc đấu tranh chống vũ khí hạt nhân.
Sự hủy diệt Hiroshima và Nagasaki đánh dấu sự mở đầu của thời đại nguyên tử, và không chỉ đối với Iwasa. Nhưng rồi Fukushima sẽ có ý nghĩa gì? “Loài người biết phóng xạ là gì, và chúng tôi những người sống sót qua Hiroshima đặc biệt biết rõ.” Vị giáo sư già mỉm cười nói khi ông đẩy đĩa sushi bữa trưa của ông sang một bên. “Tôi tin rằng chính phủ Nhật Bản biết nhiều sự thật về Fukushima hơn nó sẵn lòng thú nhận.”
Chẳng hạn, không có các giải thích về các phép đo phóng xạ ở Thái Bình Dương cho thấy các mức cao hơn bình thường 100 lần tại một số điểm. Và cũng không có thông tin về những người công nhân đã phơi ra trước các mức phóng xạ trong nước đọng cao hơn bình thường 10.000 lần hôm thứ Năm tuần qua. Các giới chức chính phủ ở Tokyo đang chỉ đưa ra những thông tin tối thiểu. Ngay cả Tổng Giám đốc Cơ quan Nguyên Tử Năng Quốc tế (IAEA), Yukiya Amano, người đã từng lãnh đạo Vụ Giải trừ quân bị, Hạn chế các vũ khí hủy diệt hàng loạt và Khoa học của Bộ Ngoại giao Nhật Bản, cũng mím chặt môi.
Lúc này, Tokyo có vẻ đã chấp nhận số phận của nó, dù điều gì xảy ra. Những người bán hàng ở thị trường cá Tsukiji nổ tiếng của thành phố nhất quyết từ chối tiết lộ hải sản tươi của họ đến từ đâu, mặc dầu đầu bếp Dobashi ở Nhà hàng Sushi-Dai ở góc phố bên kia dường như bình thản khi ông thái lát cá ngừ mềm như bơ. Quầy hàng trước mặt ông đầy những thực khách. Các tiệm ăn phản ứng mềm dẻo, ông nói. “Chúng tôi hiện giờ lấy nhiều cá từ miền Bắc xa xôi, từ Hokkaido.”
Niềm tin điềm tĩnh
Thay đổi thật sự đã diễn ra ở thủ đô Nhật Bản chỉ trở nên rõ ràng sau khi đêm xuống, khi những biển hiệu bằng đèn neon tắt hết vì thiếu điện, khi các cửa hàng truyền thống trong khu trung tâm thương mại đóng cửa sớm hơn bình thường ba giờ, và khi cuộc sống trở nên ngưng đọng trong những vùng ngoại ô của thành phố.
Chính ở đó đứng bộ xương của một cấu trúc khổng lồ - vượt cao hơn tất cả mọi tòa nhà khác trong đất nước này: Tokyo Sky Tree, (cây chọc trời) được xây dựng với kinh phí hơn nửa tỷ ơ rô, một thí dụ ấn tượng về niềm tin điềm tĩnh của người Nhật vào sự vĩ đại của đất nước và dân tộc mình.
Khi đất rung chuyển ở Tokyo ngày 11 tháng Ba, các cần cẩu xây lắp quay vươn cao lên Sky Tree. Tám ngày và một vài cuộc kiểm tra an toàn sau đó, những chuyên gia thiết kế thông báo rằng họ đã đạt được độ cao đề ra. Với chiều cao 634 mét, Sky Tree bây giờ là cấu trúc không có giá đỡ cao thứ hai trên thế giới.
Nó là một dấu chấm than tạo ra bởi bàn tay con người ở giữa một vùng động đất. 

Bản tiếng Việt: Hiếu Tân, 2011

[1] sievert (ký hiệu: Sv) là đơn vị SI dẫn xuất của lượng tương đương. Nó nhằm đánh gia về lượng các tác động sinh học của phóng xạ, tương phản với các tác động vật lý được đăc trưng bởi lượng hấp thụ, đo bằng gray. Đơn vị này được đặt theo tên nhà vật lý y khoa Thụy Điển Rolf Sievert, nổi tiếng với những công trình về đo lượng phóng xạ và nghiên cứu về các tác động sinh học của phóng xạ. 
[2] Khi lõi lò phản ứng hạt nhân chảy tan sẽ phát ra năng lượng phóng xạ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét